Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

THỨ BA TUẦN 1 MÙA VỌNG B( 01.12.2015)

 Lc 10, 21-24
Khi ấy, được Thánh Thần tác động, Ðức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” Rồi Ðức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”

Suy niệm:
Chuyện kể rằng: Ở một vùng đất nọ có một nhà hiền triết nổi tiếng là khôn ngoan và thánh thiện, người dân trong vùng ai có vấn đề gì chưa thông hiểu hay không giải quyết được đều đến thỉnh ý của nhà hiền triết và khi ra về lòng họ luôn vui mừng hân hoan vì nhận được những chỉ dẫn, những lời khuyên bổ ích. Tiếng tăm về nhà hiền triết tài đức ngày một lan rộng nên có nhiều người đến tìm gặp ngài.
Nghe biết sự tình như thế, một giáo sư trong vùng mới đâm nghĩ bụng: ta phải đến thỉnh giáo người mà thiên hạ đồn đại là khôn ngoan để xem sự thật thế nào.
Tiếp vị giáo sư trong một ngôi nhà ấm cúng, sau một vài câu hỏi chào thăm, nhà hiền triết mới mời vị giáo sư dùng trà. Khi rót trà, nhà hiền triết cứ rót mặc cho ly nước đã đầy để nước chảy tràn ra ngoài. Vị giáo sư mới thầm nghĩ rằng: “người mà thiên hạ  cho là bậc khôn ngoan hoá ra chỉ là một ông già lẩn thẩn, đãng trí”. Không thể chịu nỗi vị giáo sư mới thốt lên: “ Thưa ông, ly nước đã đầy, sao ông có thể rót thêm được nữa”. Lúc này, nhà hiền triết mới dừng lại và bình thản nói: đúng thế, ly trà đã đầy sao có thể rót thêm được. Giống như ly trà, Ông đến với tôi khi lòng chất đầy thành kiến và kêu ngạo thì làm sao tôi có thể nói với ông về những triết thuyết của tôi”.
 Câu chuyện kể trên không mấy khó để mỗi người chúng ta rút ra cho mình bài học nhân bản là cần lắm sự chân thành, khiêm nhu, đơn sơ trước người khác và trước cuộc sống. Lẽ đời vốn dĩ luôn quý chuộng những con người mặc lấy cho mình tâm tình như thế và ngược lại, thói kêu căng tự phụ cho dẫu là ai đi chăng nữa đều đáng khinh chê, lên án.
Tin Mừng ngày hôm nay cũng đã nói lên điều đó, khi Đức Giê-su lòng đầy hoan hỷ trong Thánh Thần đã thốt lên: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen cha vì cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những mầu nhiệm nước trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mon. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha".
Trước tiên, người bé mọn Chúa Giê-su muốn nói đến là ai? Một câu trả lời dễ dàng khi soi dọi vào bối cảnh của  đoạn Tin Mừng hôm nay đó là  các môn đệ nói riêng và những người mặc lấy thái độ khiêm nhường, biết lắng nghe lời Chúa nói chung. Đoạn Tin Mừng tường thuật lại việc các ông trở về lòng đầy hân hoan vì nhân danh Đức Giêsu mà họ chữa được các bệnh tật, trừ được quỷ. Niềm tin nhưng không mà Thiên Chúa mặc khải cho các ông cần lắm thái độ khiêm nhường, tín thác, đơn sơ vì họ xác tín rằng chính quyền năng Thiên Chúa đã làm những việc ấy và họ chỉ là những khí cụ để Thiên Chua thi thố tình thương của Nnười mà thôi.
Cũng thế, những bậc khôn ngoan thông thái mà Chúa ám chỉ không ai khác chính là những kinh sư, những Pharisêu, những nhà thông luật cho rằng mình thông minh, thuộc luật Môsê và đã đủ khôn ngoan để cầm nắm chìa khoá của sự trường cửu. Đó là những nhà thông thái chỉ gói gọn trong bối cảnh Tin Mừng nhưng sâu xa hơn, đó có thể còn có tôi và có bạn khi chúng ta với một chút kiến thức cỏn con đã huyênh hoang, kêu ngạo cho mình là nhất , đã thấu hiểu lẽ đời, muốn làm thầy thiên hạ, xem người khác bằng nữa con mắt... thái độ ấy chẳng phải như vị giáo sư ở câu chuyện trên ư, chẳng phải chính chúng ta cũng thấm nhiễm men Pharisêu, men kinh sư biệt phái ư. Thái độ ấy, chưa xét đến giá trị Tin Mừng, chỉ xét đến đạo đức luân thường xã hội thôi cũng đáng bị lên án.
Thánh Phaolô trong thư gửi đến giáo đoàn Cô-rin-tô cũng nhắn nhủ những tâm tình ấy khi ngài nói: "Những gì thế gian cho là điên dại thì  Thiên Chúa đã chọn để hạ gục những kẻ khôn ngoan và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ gục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì đã có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người" (1Cr 1, 27 - 29).
Dừng lại giây lát để suy xét  một vấn đề là chúng ta không thể đem thước đo giá trị của con người để mặc định cho Thiên Chúa trong việc nhận định tốt xấu đúng sai, nhưng thiết nghĩ, Thiên Chúa luôn yêu quý những tâm hồn đơn sơ, chân thành lắng nghe lời Chúa hơn là những người tự coi mình là thầy dạy của thiên hạ. Điều này được minh chứng khá rõ khi Chúa tỏ mình ra cho Ba Vua, khi gọi Lêvi- người thu thuế, khi ghé nhà GiaKêu- một người giàu có, khi trò chuyện cùng Nicôđêmô - một kinh sư lỗi lạc trong dân Do Thái. Cần phải minh định điều cốt lõi ở đây là, không phải Thiên Chúa là đấng thiên tư tây vị, chỉ yêu chuộng những người nghèo khổ, đơn sơ, bần hàn, mà lại “ngó lơ” những người khôn ngoan, thông thái, giàu có mà chính xác là Chúa yêu chuộng những tâm hồn đơn sơ, chân thành và khiêm nhường dẫu cho họ là người thông thái hay không thông thái, cao sang hay bần hàn, giàu có hay nghèo khó, cốt lõi là thái độ đón nhận Lời Chúa như thế nào.
Xin được mượn lời thánh vịnh 130 (131) để thể hiện thái độ đơn sơ, khiêm hạ trước Thiên Chúa Tình Yêu.
Lòng con chẳng dám tự cao
Mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi!
Đường cao vọng chẳng đời nào bước,
Việc diệu kì vượt sức chẳng cầu;
Hồn con con vẫn trước sau
Giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
Trong con hồn lặng lẽ yên vui.
Cậy vào Chúa Israel ơi,
Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm
Bước vào Mùa vọng – mùa của sự trông đợi, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình đơn sơ, khiêm nhu, chân thành để thực sự khao khát, mong chờ Chúa đến bằng tất cả tâm hồn, chứ không phải là một thái độ hờ hững, xem thường biến cố Giáng Sinh  như một sự luân chuyển thường niên của năm phụng vụ. Hãy khiêm nhường tạ ơn Chúa vì hồng ân Đức Tin mà Chúa đã mặc khải cho chúng ta. Hãy Mặc lấy sự khiêm hạ, chân thành để lắng nghe, đón nhận Lời Chúa vì Chúa luôn yên mến những tâm hồn bé nhỏ, đơn sơ và khiêm nhu. A-men.
Phaolô Lê Quốc Bảo SDB


Chúa Nhật II Mùa Vọng, C (Lu-ca 3: 1-6)



          Bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng giới thiệu Chúa Giê-su là Con Người sẽ đến xét xử trần gian và sứ điệp của Người kêu gọi ta phải chuẩn bị đón tiếp Người, hôm nay Phụng vụ Lời Chúa trình bày một gương mẫu đáp lại sứ điệp của Chúa:  ông Gio-an Tiền hô.  Ông mời gọi người ta chuẩn bị đón tiếp Chúa.  Nhưng lời mời gọi ấy lại chính là những điều ông đã sống và giờ đây ông đem chia sẻ với mọi người.  Vậy ông Gio-an là ai và sứ điệp của ông là gì?

1)  Thân thế và sứ mệnh của ông Gio-an Tiền hô

          Trước khi viết về sứ mệnh của ông Gio-an Tiền hô, thánh sử Lu-ca đã ghi lại bối cảnh lịch sử xã hội và tôn giáo thời ấy.  Các lãnh tụ đời cũng như đạo đều được nhắc tới. Đây không chỉ là cách viết của một sử gia nói có sách mách có chứng, nhưng hơn thế nữa, thánh Lu-ca còn muốn trình bày một bối cảnh mà ông Gio-an sẽ thi hành sứ mệnh là kêu gọi người ta hối cải, nghĩa là cần phải đổi mới cả hai phương diện xã hội cũng như tôn giáo.
          Thân thế của ông Gio-an đã được nói đến trong Tin Mừng Lu-ca, chương 1.  Cuộc ra đời của em bé Gio-an mang những nét đặc biệt, cho thấy bàn tay Thiên Chúa can thiệp rõ ràng.  Mẹ em có thai trong tuổi già.  Cha em bị câm một thời gian vì hoài nghi lời sứ thần Gáp-ri-en tiên báo.  Mới là một bào thai, em bé đã biết nhảy mừng trong bụng mẹ khi bà đến viếng thăm Mẹ Ma-ri-a.  Ngay việc đặt tên cho em cũng khác thường, không phải bằng cái tên của họ hàng muốn đặt cho, nhưng cái tên Gio-an do thiên sứ truyền cho ông Da-ca-ri-a phải đặt.  Càng lớn lên, tinh thần cậu bé “càng vững mạnh”.  Khi lớn khôn, “cậu sống trong trong hoang địa, cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en”.
Trong hoang địa, Gio-an lãnh nhận sứ mệnh từ Thiên Chúa và ông chọn lựa một địa bàn hoạt động cũng rất khác thường, là “đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”.  Ta thử tưởng tượng mình sống vào thời ấy để thấy ông Gio-an thi hành sứ mệnh.  Phương tiện giao thông chỉ là đôi chân dày dạn.  Thế mà ông Gio-an đã đi khắp vùng ven sông Gio-an, đến các làng mạc chung quanh để rao giảng về sự sám hối.  Kèm theo lời giảng, ông chọn lựa một nghi thức để giúp người ta biểu lộ tâm tình sám hối, đó là phép rửa.  Mục đích sứ mệnh của ông là làm sao giúp người ta sẵn sàng “để được ơn tha tội”.  Ông ý thức rõ ràng phép rửa của ông chỉ là một nghi thức dùng nước để giúp người ta ý thức tình trạng tội lỗi của họ thôi, vì nước không thể rửa sạch tội lỗi cho ai được.  Chỉ có Đấng đến sau ông là Đức Ki-tô mới “làm phép rửa trong Thánh Thần” (Mc 1:8), nghĩa là chỉ Đức Ki-tô mới có thể tẩy rửa tội lỗi ta trong công trình cứu độ của Người.  Do đó, sứ mệnh của ông Gio-an là làm tiếng hô kêu gọi người ta chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn cứu độ, “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.

2)  Sứ điệp sám hối

          Dọn đường cho Đức Chúa đến, lối cho Người đi vào tâm hồn ta là mục tiêu của sứ điệp Gio-an.  Nhưng nếu đường đã bị cắt, lối đã bị ngăn thì làm sao Chúa đến với ta được. Chúa không độc đoán dùng quyền năng của Người bắt ta phải để cho Người đến với ta, trái lại Người muốn có một cuộc gặp gỡ đồng tình, do ý muốn của đôi bên.  Nếu Người đã xếp bỏ thời gian và không gian vô biên của Thiên Chúa lại để chấp nhận chịu hạn hẹp trong thời gian và không gian của loài người qua Đức Ki-tô mà đến với ta, thì Người cũng mong ta hãy phá bỏ đi những giới hạn tâm hồn của ta để mở lòng cho Người tới.  Ngôn sứ I-sai-a đã dùng những hình ảnh thật quen thuộc để mô tả những giới hạn tâm hồn ấy.  Đó là thung lũng, núi đồi, quanh co, lồi lõm.  Đối với kỹ thuật và cơ giới hiện nay, thực hiện một con đường tại nơi gặp những trở ngại như trên không còn là vấn đề khó khăn.  Máy móc tối tân có thể giúp người ta xây một xa lộ trong thời gian thật ngắn.  Nhưng người ta lại bó tay không thể làm một con đường dẫn Chúa vào tâm hồn một người không muốn có sự thay đổi nào.
          Ông Gio-an chỉ lập lại sứ điệp của ngôn sứ I-sai-a thôi.  Sứ mệnh của ông quả đơn giản, là kêu gọi mỗi người hãy tự mình dọn đường lối cho Chúa đến.  Đúng vậy, ngoài Chúa ra, ai có thể biết rõ được tâm hồn người khác.  Mà giả như người khác có biết được những thung lũng, núi đồi, quanh co và lồi lõm của tâm hồn ta, thì họ cũng chẳng có thể làm gì hơn ngoài việc nhắc nhở ta sửa đổi.  Ông Gio-an đã đem cả cuộc đời để làm công việc đơn giản là nhắc nhở kêu gọi người ta. Tiếng hô của ông trong hoang địa đã vượt biên tới tận kinh thành Giê-ru-sa-lem.  Mọi người mọi giới đạo đời đã đến xin ông cho biết họ phải làm gì.  Có nhiều người làm theo lời chỉ dạy.  Nhưng cũng có nhiều người chẳng những không muốn nghe mà còn muốn dập tắt tiếng hô của ông.  Ông chấp nhận mọi thử thách và cả cái chết đau thương để chu toàn sứ mệnh nhắc nhở ấy.

3)  Những Gio-an Tiền hô hôm nay

          Khi đem sứ điệp sám hối đến cho dân chúng, bản thân ông Gio-an đã sống sứ điệp ấy.  Ông từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của thành phố và những tham vọng để chọn lối sống trong hoang địa, giống như lấp đầy đi cái thung lũng tham sân si của ông.  Ông bạt phẳng núi đồi kiêu căng ganh tị ngấm ngầm trong lòng, để xác tín chỗ đứng của ông sau Chúa Giê-su:  “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.  Ông cũng không quanh co đánh lận con đen, vỗ ngực nói với dân chúng đang ngưỡng mộ ông:  Tôi chính là Đấng Mê-si-a đây! (xem Lc 3:15).
          Mẫu người Gio-an đã lấy đời mình làm sứ điệp, làm tiếng hô sám hối.  Ki-tô hữu hôm nay cũng ý thức sứ mệnh làm sứ điệp sám hối.  Ta sống tinh thần sám hối, thay đổi và phá bỏ đi những trở ngại tâm hồn, để từ đó ta sẽ trở thành một tiếng hô cho gia đình, xã hội và thế giới.  Kinh nghiệm cho ta biết rất nhiều bậc cha mẹ không thể bảo ban dạy dỗ con cái được, là vì “tiếng hô” của họ rỗng tuyếch, không có cơ sở bởi đời sống gương mẫu.
          Trong viễn tượng truyền giáo, ta không thể mời gọi anh chị em chưa được biết Chúa đón nghe Tin Mừng nếu chính đời sống của ta không phản ảnh những giá trị Tin Mừng. Ta không thể nói với họ về bác ái, yêu thương, nếu chính ta thiếu lòng bác ái yêu thương.  Ta không thể loan báo cho người khác biết Chúa đến cứu độ ta, nếu ta chưa cho họ thấy con đường Chúa đến với ta đã được chuẩn bị sẵn sàng.

4)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Tất cả cuộc sống Ki-tô hữu là một hành trình sám hối không ngừng để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.  Vậy tôi đang trên hành trình ấy hay vẫn giậm chân tại chỗ? Tôi có ý thức sứ điệp Tin Mừng của Chúa Ki-tô cũng bắt đầu bằng việc kêu gọi sám hối không?  Tôi đọc Mác-cô 1:15 hoặc Mát-thêu 4:17 và trả lời Chúa.
          Những điểm xấu và tiêu cực nào trong tâm hồn tôi được ví như thung lũng, đồi núi, quanh co, lồi lõm?  Tôi có một vài phương thức cụ thể nào để thay đổi chúng, đặc biệt trong mùa Vọng này?

Cầu nguyện

          “Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến.
          Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
          Chúa đã ở bên chúng con rồi.
          Có cả triệu người chưa biết Chúa.
          Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
          Chúa đến để làm gì
          nếu đời sống con cái của Chúa cứ tiếp tục y như cũ?
          Xin hoán cải chúng con.
          Xin lay chuyển chúng con.
          Ước gì sứ điệp của Chúa
          trở nên máu thịt của chúng con,
          trở nên lẽ sống của cuọâc đời chúng con.
          Ước gì sứ điệp đó
          lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
          và đòi buộc chúng con,
          làm chúng con không yên.
          Bởi lẽ chỉ như thế,
          sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
          bình an sâu xa,
          thứ bình an khác hẳn,
          đó là Bình An của Chúa.”
-          Helder Camara
(Trích RABBONI, lời nguyện 11)


Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Thứ Hai sau Chúa Nhật I Mùa Vọng – Năm C

 Lời Chúa: Mt 4, 18-22
“Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4, 19 -20).
Thánh Matthêu thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Trình thuật này gợi lên hai yếu tố căn bản của tất cả các ơn gọi. Một đàng, việc Chúa cất tiếng gọi “Hãy theo Thầy” nói lên sự chủ động và ưu ái của Chúa đối với những người được gọi. Đàng khác, sự đáp trả lập tức của môn đệ Phê-rô, An-rê, Gia-cô-bê và Gioan nói lên thái độ quảng đại và sự từ bỏ cần có nơi môn đệ của Đức Giêsu. Họ cần từ bỏ tất cả để Chúa huấn luyện họ trở thành “kẻ chài lưới người” chuyên nghiệp cho Ngài. Khi nhận ra mình được Chúa Giêsu yêu thương và chọn gọi, các môn đệ đã đáp lại cách trọn vẹn, không phải một lần nhưng là trải dài suốt mọi biến cố trong cuộc đời. Đỉnh cao của lời đáp trả này là việc các ngài đã chọn cách chết như Thầy, chết cho người khác được sống đời đời.
Nếu xưa Chúa đã đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê để kêu gọi các môn đệ thì nay Chúa cũng đang đi dọc theo biển đời để mời gọi con người tiếp nối việc rao giảng Tin Mừng. Xưa Chúa đã hiện diện cách thể lý và gọi đích danh người được chọn thì nay Chúa vẫn đang hiện diện nơi Giáo Hội qua các vị đại diện của Ngài và cất tiếng gọi đối với những người Chúa muốn. Giữa một thế giới nhiều tiếng vẫy gọi như ngày hôm nay, tiếng Chúa gọi dường như xa lạ với nhiều người. Số bạn trẻ nghe và đáp lại tiếng Chúa đang ít dần. Chúa muốn mỗi người chúng ta đáp lại lời Ngài cách dứt khoát và trọn vẹn, không phải một ngày nhưng là mọi ngày trong đời ơn gọi của ta. Chúa muốn ta chu toàn ơn gọi của mình qua từng công việc và từng biến cố trong mỗi ngày sống. Nếu ta ví ơn gọi của ta như một đường thẳng thì những ngày sống vâng theo thánh ý Chúa nơi ta sẽ là những dấu chấm liên tục tạo nên đường thẳng đó. Dấu chấm đậm thì đường thẳng rõ, dấu chấm nhạt thì đường thẳng mờ. Khi có một đường thẳng rõ thì ta dễ dẫn mọi người đến với Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Giáo Hội của Chúa luôn cần những vị tông đồ thiện toàn để mở rộng Nước Chúa. Xin cho chúng con và nhiều bạn trẻ hôm nay biết noi gương các môn đệ của Chúa biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi cách dứt khoát và trọn vẹn. Xin cho chúng con dám buông mình cho Chúa đào luyện để mai này trở thành những môn đệ như lòng Chúa ước mong.


Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2015

THỨ HAI 30.11 - THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ, Lễ kính

Rm 10:9-18; Mt 4:18-22

Lời Chúa: Mt 4, 18-22
Khi ấy, Đức Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là Simon, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Ði một quảng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
TRỞ NÊN NGƯỜI MÔN ĐỆ
Thánh Anrê xuất thân từ Bếtsaiđa và là ngư phủ. Theo Tin mừng Gioan, đầu tiên ngài là môn đệ của Gioan Tẩy Giả; sau khi nghe lời giới thiệu của thầy về “Chiên Thiên Chúa”, ngài theo Đức Giêsu, trở thành môn đệ và thuộc vào nhóm Mười Hai.
Thánh sử Mátthêu thuật lại niềm tin và sự đáp trả của tông đồ Anrê khi được Đức Giêsu gọi đi theo Người làm môn đệ. Từ đấy cuộc đời của Anrê thay đổi hoàn toàn. Anrê đã dành trọn cuộc đời cho ơn gọi theo Chúa. Từ một ngư phủ trở thành người nhiệt tâm rao giảng Tin mừng cho muôn dân.
Thánh Anrê minh chứng lòng trung thành với sứ mạng ấy bằng giá máu của mình, nhờ đó Tin mừng cứu độ được đến với muôn dân muôn nước. Noi gương thánh Anrê, chúng ta có sẵn sàng loan báo Tin mừng cứu độ cho anh chị em bằng đời sống chứng tá của người môn đệ Đức Kitô?
Lạy Chúa, xin nhận lời thánh Anrê cầu thay nguyện giúp mà củng cố niềm tin của chúng con, để chúng con cũng chia sẻ niềm tin của mình cho những người chúng con gặp gỡ.


Gr 33:14-16; 1 Tx 3:12 – 4,2; Lc 21:25-28.34-36
Lời Chúa: Lc 21, 25-28.34-36
Ðức Giêsu nói về ngày Quang lâm của Người rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc. Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”
NGÀY CON NGƯỜI ĐẾN
Vừa đưa bàn tay mặt nắm chặt lấy tay trái, thánh Hialariô (+371) vừa khẩn thiết kêu xin Chúa và tuyên xưng vào cuộc sống mai sau. Ngài là một thầy dòng khổ tu tại Palestin chuyên cầu nguyện và hy sinh khổ hạnh. Nhưng đến giờ phút cuối cùng, trước khi nhắm mắt, giờ Chúa gọi, ngài đã phải đương đầu với một chước cám dỗ nặng nề dường như ngã lòng trông cậy, khiếp sợ tòa phán xét nên đã phải cầu nguyện tha thiết. Về phần mình, chúng ta có luôn sẵn sàng đón chờ Chúa đến trong từng giây phút của cuộc đời?
Bài Tin mừng hôm nay là một trong những diễn từ cánh chung của Đức Giêsu và được viết theo lối văn khải huyền. Người đến để tiêu diệt tử thần và giải cứu con người thoát khỏi bóng tối của sự chết. Vì thế, giáo huấn của Người mời gọi các tín hữu phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn để tránh xa mọi thói hư tật xấu, cám dỗ của thế gian.
Danh hiệu Con Người được Đức Giêsu chọn để ám chỉ bản thân Người, nhằm biểu lộ sứ mệnh thiên sai của Người. Tước hiệu Con Người có hai ý nghĩa khác nhau: Một là muốn nói đến “Người Tôi trung của Thiên Chúa” sẽ phải chịu đau khổ để đền tội thay cho nhân loại; hai là Chúa Con sẽ được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, và sẽ quang lâm vào ngày sau hết trong cương vị Thẩm Phán tối cao mà xét xử thế gian và “thiết lập một vương quyền vĩnh cửu”.
Cụm từ “Ngự trong đám mây mà đến” cho biết Đức Giêsu sẽ ngự đến trong uy quyền và vinh quang của Thiên Chúa. Thế nên, “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” là thái độ sẵn sàng, hân hoan, tràn đầy niềm hy vọng của các tín hữu vì sắp nhận được ơn cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết “tìm gặp Chúa” trong mọi ơn lành Chúa ban, trong các bí tích, trong các việc lành và trong mỗi anh chị em, để vào ngày Chúa viếng thăm, chúng con sẽ được gặp Chúa.



Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô Theo Thánh Luca. (Lc 21, 25-28.34-36)
25 "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét.26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc." 34 "Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em,35 vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất.36Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người."
SUY NIỆM
Quyền lực của sự dữ làm cho con người khom lưng, đi bằng đầu gối, cúi rạp người, sấp mặt, sợ hãi và rồi tuân phục và làm theo những gì nó sai khiến. Lời tiên báo của Chúa Giêsu làm cho chúng ta hình dung nên cảnh sợ hãi và hỗn loạn trong ngày cánh chung. Nhiều người sẽ hồn siêu phách lạc và không dám mở mắt lên xem. Lời tiên báo của của Chúa Giêsu làm chúng ta liên tưởng đến sự cưỡng bức bằng quyền lực thống trị, đến sự cường quyền và bạo lực gây ra sợ hãi trong nhân loại suốt chiều dài lịch sử hiện diện của con người chúng ta. Nhiều người vì cường quyền mà chấp nhận làm tay sai, nhiều người vì ham danh hám lợi mà đánh mất nhân cách và nhân phẩm, nhiều người vì ma lực của đồng tiền mà cúi gầm mặt và chấp nhận đánh mất lương tri. Nhìn lại lịch sử chúng ta thấy đầy dẫy những trò lố như thế và chúng ta chê cười. Những người đã sa vào trận đồ của quyền lực tối tăm ma quỷ ấy rõ là không thể ngẩng mặt lên với đời và mãi mãi cúi sấp mặt với lịch sử. Nó như một bài học để răn dạy hậu thế. Sống là phải cao thượng, sống phải vì chính danh và sống trên hết phải lương thiện. Chúa Giêsu bảo: “khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”. Đứng thẳng và ngẩng đầu là tư thế của người công chính, không vì cường quyền mà sợ hãi, không vì áp bực mà trở nên xu nịnh, không vì ma lực của tiền bạc mà đánh mất lương tri, cúi rạp mình để bạo quyền và tư lợi làm chủ.
Người công chính thì chọn Chúa làm cùng đích và họ không sợ gì ngoài Chúa. Người bất chính thì bán mình cho quyền lực sự dữ và chấp nhận nô lệ cho những vinh hoa của nó mang lại.
Lạy Chúa, nhiều cám dỗ biết bao giữa cuộc đời, nhưng xin cho chúng con chọn Chúa làm lẽ sống của con. Amen.   



Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô Theo Thánh Luca. (Lc 21, 25-28.34-36)
25 "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét.26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc." 34 "Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em,35 vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất.36Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người."
SUY NIỆM
Quyền lực của sự dữ làm cho con người khom lưng, đi bằng đầu gối, cúi rạp người, sấp mặt, sợ hãi và rồi tuân phục và làm theo những gì nó sai khiến. Lời tiên báo của Chúa Giêsu làm cho chúng ta hình dung nên cảnh sợ hãi và hỗn loạn trong ngày cánh chung. Nhiều người sẽ hồn siêu phách lạc và không dám mở mắt lên xem. Lời tiên báo của của Chúa Giêsu làm chúng ta liên tưởng đến sự cưỡng bức bằng quyền lực thống trị, đến sự cường quyền và bạo lực gây ra sợ hãi trong nhân loại suốt chiều dài lịch sử hiện diện của con người chúng ta. Nhiều người vì cường quyền mà chấp nhận làm tay sai, nhiều người vì ham danh hám lợi mà đánh mất nhân cách và nhân phẩm, nhiều người vì ma lực của đồng tiền mà cúi gầm mặt và chấp nhận đánh mất lương tri. Nhìn lại lịch sử chúng ta thấy đầy dẫy những trò lố như thế và chúng ta chê cười. Những người đã sa vào trận đồ của quyền lực tối tăm ma quỷ ấy rõ là không thể ngẩng mặt lên với đời và mãi mãi cúi sấp mặt với lịch sử. Nó như một bài học để răn dạy hậu thế. Sống là phải cao thượng, sống phải vì chính danh và sống trên hết phải lương thiện. Chúa Giêsu bảo: “khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”. Đứng thẳng và ngẩng đầu là tư thế của người công chính, không vì cường quyền mà sợ hãi, không vì áp bực mà trở nên xu nịnh, không vì ma lực của tiền bạc mà đánh mất lương tri, cúi rạp mình để bạo quyền và tư lợi làm chủ.
Người công chính thì chọn Chúa làm cùng đích và họ không sợ gì ngoài Chúa. Người bất chính thì bán mình cho quyền lực sự dữ và chấp nhận nô lệ cho những vinh hoa của nó mang lại.
Lạy Chúa, nhiều cám dỗ biết bao giữa cuộc đời, nhưng xin cho chúng con chọn Chúa làm lẽ sống của con. Amen.   


Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2015



Trong đời, có rất nhiều dịp để bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với cha mẹ, anh em, bạn bè và những người xung quanh. Hơn thế nữa, ta còn dâng lời tạ ơn Thiên Chúa của mình. Vâng, đó là một biểu lộ đẹp của con người với nhau, là một nghĩa cử quý báu của tạo vật đối với Đấng Tạo Hoá.

Tạ ơn là một bổn phận
Thật là phải đạo khi tạ ơn cha mẹ về công lao sinh thành dưỡng dục. Các ngài đã chịu đủ mọi vất vả lo toan, không thiếu điều cay đắng tủi nhục, dư đầy những khó nhọc gian nan. Công lao của cha mẹ lớn lắm. Ta có thể xây nhà, cho tiền, tạo mọi điều kiện cho cha mẹ. Nhưng nói đến việc báo hiếu thì không thể nào có dấu chấm hết.
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Thật là hợp lý khi tạ ơn người thân, lối xóm làng giềng, bạn bè và những người xung quanh. Tất cả đều cộng tác vào việc đào tạo, hỗ trợ cuộc sống của ta. Quả không sai khi nói : mọi người đều là ân nhân của nhau. Nhờ Giáo hội, xã hội mà các khả năng của ta được phát triển, đường tiến thân và hiến thân của ta được phát huy. Và ta trở thành người có giá trị, hữu ích cho mọi người.
Thật là chính đáng khi tạ ơn Thiên Chúa, Đấng chẳng để ta không không mãi ngàn đời, nhưng vui lòng chia sẻ sự sống, tác tạo nên ta theo hình ảnh Ngài. Rồi còn đưa vào Giáo hội để ta sống trong đức tin và ân nghĩa Chúa. Trong ân nghĩa ta mới có thể biểu lộ niềm tin và trong đức tin ta mới có thể hiểu được thế nào là ân sủng.
Tạ ơn là một trách nhiệm
Con người không hiện hữu một mình, nhưng là sống với, sống cùng. Vì vậy, con người không đơn giản chỉ thực hiện việc cám ơn cha mẹ, biết ơn nhau, tạ ơn Chúa một mình. Mà mỗi người, mỗi ơn gọi đều có trách nhiệm tạ ơn trong cộng đoàn liên hệ là : gia đình, học đường, dòng tu, cộng đoàn mình sống. Vì tất cả đều là anh em con cùng một Cha trên trời. Vì tất cả đều đã được nhận ơn từ trời. Vì thế, tất cả đều có trách nhiệm phải giúp nhau tạ ơn. Ta không nên thánh một mình nhưng là cùng nhau nên thánh.
Tạ ơn là một ân sủng
Thật trân trọng khi con người biết tạ ơn nhau, nhưng xét cho cùng cũng chỉ ở bình diện nhân loại. Còn khi tạ ơn Thiên Chúa mới thật sự vinh phúc, vì ta không tạ ơn người phàm, mà tạ ơn thần linh - Đấng đã tạo dựng muôn loài muôn vật. Tạ ơn chỉ có lợi cho con người mà thôi. Và Thiên Chúa cũng “chẳng cần chúng ta ca tụng, nhưng việc chúng ta cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng ta ơn cứu độ” (kinh tiền tụng IV). 
Khi tạ ơn, con người được thoát ra khỏi cái hạn hữu bé nhỏ của mình để hoà nhập vào vinh quang Thiên Chúa, Đấng đã ban cho ta ơn có thể mở miệng, mở lòng mà tạ ơn. Ta hãy hãnh diện vì vì ân sủng này. Càng tạ ơn, ta càng nhận thấy nhiều điều lớn lao kỳ diệu của Thiên Chúa. Ta càng nhìn thấy Thiên Chúa thật và con người thật của mình. Ta sẽ thành chúa, chúa trong Chúa. Ta và Ngài là một. Nói khác đi : “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là chính Chúa sống trong tôi” (Gl 2,20)
Hai tiếng tạ ơn thật cũ kỹ nhưng ý nghĩa thì luôn chuyển động. Vì mỗi giây phút qua đi, tạ ơn lại là một hành động mới, một ý nghĩa mới. Giá trị cao đẹp nhất của đời người là biết tạ ơn Chúa, cám ơn người, biết ơn nhau.

Thứ 6 tuần 34: Tồn tại qua muôn đổi thay


Lc 21, 29-33

Nhân loại đã và đang bước đi trên đại lộ của thế kỷ được coi là ánh sáng trong một thế giới khoa học tân tiến và tự do. Khung trời ấy tạo ra cho con người những khả năng mới với những thuận lợi mới mà nhiều khi con người không bao giờ nghĩ tới. Tuy nhiên, sự chuyển mình với não trạng duy khoa học của nhân loại nhiều khi lại khai tử đời sống đạo đức, ‘‘thu hẹp’’ Thiên Chúa vào trong một chấm nhỏ của lịch sử. Trước sự “thay da đổi thịt” của lối sống tân thời, điều gì sẽ còn và mãi tồn tại qua thời gian? Nơi Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hướng con người đến điều mãi luôn hiện diện dẫu có muôn vàn đổi thay “Trời đất này sẽ qua đi nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Lc 21,33).

“Trời đất này sẽ qua đi” (Lc 21,33a). Đây là lời khẳng định của Chúa Giêsu về tương lai của vũ trụ vật chất. Cái hữu hạn sẽ tan biến qua vòng luân chuyển của thời gian. Cái hữu hạn ở đây là chính sự giới hạn mong manh của kiếp nhân sinh, là những gì mỗi người đang nắm giữ. Kinh nghiệm và Kinh Thánh cho thấy mỗi người sẽ không ở địa cầu mãi mãi vì mọi sự sẽ qua đi. Những giới hạn của thực tại hữu hạn ấy gợi lên nơi tâm thức mỗi người những suy nghĩ về chính cuộc đời với ý nghĩa của nó “Tôi là ai? Tôi đến từ đâu và sẽ đi về đâu? Đâu là nơi an toàn vững chắc để tôi có thể thả neo cuộc đời?”

“Những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Lc 21,33b). Lời xác quyết của Chúa Giêsu gọi về sự hiện diện thường hằng của Người giữa nhân gian. Không những hiện diện trong Lời (Logos) được lưu truyền qua muôn thế hệ mà Ngài còn có mặt mọi nơi, mọi lúc qua các biến chuyển của thời đại. Hơn nữa, Ngài còn hiện diện trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời mỗi người. Sự hiện diện đầy yêu thương đó khơi lên niềm hy vọng của con người về một viễn tượng mới nơi Công Lý ngự trị. Đắm mình trong sự hiện diện của Thiên Chúa giúp mỗi người xác tín hơn ý định và tình yêu quan phòng của Đấng là Chủ dòng thời gian trong những bước thăng trầm của lịch sử nhân loại nói chung và cách riêng với những biến cố của mỗi nhân vị.

Lạy Thiên Chúa là Cha Hằng Hữu, là Đấng luôn hiện diện và quan phòng nhân thế. Xin cho chúng con mãi luôn ý thức và nhận ra sự hiện diện trường tồn của Ngài trong mọi biến cố ngõ hầu mỗi người chúng con luôn biết từ bỏ những gì phù vân mà gắn mình với thực tại hằng hữu là chính Chúa.

Thứ 7 tuần 34: Hành trình cuối cùng


Thứ Bảy tuần 34 ( Lc 21, 34 - 36)


Nếu con người có ngày sinh ắt sẽ có ngày tử. Nghe có vẻ rất tiêu cực, nhưng đó lại là một sự thật không ai chối cãi được. Cũng vì nó là một sự thật, một sự thật đau lòng nên người ta tìm cách tránh né nói đến nó, và thay vào đó là tìm cách để cho mình được sống, càng lâu càng tốt. Nhưng khổ nỗi, cái chết lại như hình với bóng đeo đuổi con người suốt hành trình dương thế này. Vì không tìm được lối thoát nên nhiều người đã thất vọng khi phải đối diện với cái chết. Với người Ki-tô hữu, cái chết không phải là kết thúc nhưng là mở ra một viễn tượng mới. Đó là ngày họ được trở về với Đấng mà suốt cả cuộc đời tin tưởng cậy trông và khao khát đạt tới. Phải chăng tất cả mọi Ki-tô hữu đều được hạnh phúc vào ngày Chúa quang lâm hay còn phải chuẩn bị những gì cho ngày đó?

Không phải cứ là Ki-tô hữu là nắm chắc phần phúc đời sau. Đức tin chúng ta lãnh nhận ngày chịu Bí tích Rửa tội mới là khởi đầu, còn phải làm cho đức tin ấy sinh hoa kết quả nữa. Sống đức tin trong cuộc sống dương thế này là một cơ hội tốt để rèn luyện đức tin của chúng ta. Với một cuộc sống bình thường hằng ngày chúng ta đã thấy biết bao nhiêu khó khăn thử thách, đôi lúc còn làm cho chúng ta lo lắng bất an về sự lựa chọn tin theo Chúa của mình. Vậy mà ngày Chúa đến còn khủng khiếp biết là chừng nào? (x. Lc 21, 23-27). Hiểu thấu được sự lo lắng bất an đó, Chúa Giê-su đã căn dặn các môn đệ cũng như chúng ta hôm nay là hãy đề phòng: cách tiêu cực là “chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” (Lc 21,34); cách tích cực là “phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn” (Lc 21.36).

“Tỉnh thức và cầu nguyện” là những việc chúng ta cần chuẩn bị cha ngày mà Chúa đến viếng thăm. Tỉnh thức là gắn bó với Đấng mình trông đợi. Một sự tỉnh thức như vậy không thể tách rời việc cầu nguyện, vì cầu nguyện giúp ta hướng lòng lên Chúa. Chỉ có tỉnh thức và cầu nguyện mới giúp cho người Ki-tô hữu có đủ sức và đứng vững trong cuộc chiến đấu quyết liệt của những ngày cuối cùng. Tỉnh thức cũng có nghĩa là chu toàn nhiệm vụ được giao phó (Lc 12,42-44), là luôn mang một thao thức muốn sống phù hợp với những giá trị Tin mừng. Một cuộc sống biết tỉnh thức và cầu nguyện như thế sẽ giúp cho cuộc sống Ki-tô hữu của chúng ta ở đời này luôn đượm màu sắc của hy vọng, hy vọng về một trời mới đất mới nơi công lý ngự trị. Luôn biết chuẩn bị sẵn sàng như vậy, thì ngày Chúa quang lâm sẽ không còn gì là bất ngờ nữa, nhưng sẽ là ngày mà mọi ước mong của chúng ta được thành toàn.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu chuẩn bị những gì tốt nhất cho ngày Chúa đến viếng thăm. Để khi Chúa đến chúng con đã sẵn sàng không còn phải hoang mang lo lắng nữa, vì được ở bên Chúa mãi mãi.

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015

Thứ sáu Tuần 34 Thường niên

Lời Chúa: Lc 21, 29-33
Khi ấy, Ðức Giêsu kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: “Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác. Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần. Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Ðại Chúa đã đến gần. Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.”
Trong những ngày cuối năm phụng vụ, Lời Chúa dẫn đưa chúng ta tới viễn cảnh cánh chung, tới tình trạng con người được sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định: “Trời đất qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Lc 21, 33). Thật vậy, thực tại trần thế này chỉ như ngôi nhà tạm bợ, mọi sự rồi sẽ qua đi, Lời Chúa thì tồn tại qua muốn thế hệ, đó là Lời sáng tạo, Lời thông ban sự sống và Lời Cứu Độ toàn thể nhân loại. Đây là điều mà Thánh sử Gioan đã xác quyết trong những trang đầu của Tin Mừng: “Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1, 1).
Mỗi người tín hữu kitô được mời gọi lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Quả thật Lời Chúa không chỉ được nghe bằng đôi tai nhưng hơn cả cần được nghe bởi con tim. Một con tim biết rung lên những nhịp đập của tình yêu thương, lòng cảm thông, tâm hồn chia sẻ… sẽ lắng nghe được Lời Chúa và tiếng tha nhân, để từ đó sẽ có những lựa chọn, quyết định và hành động phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Lạy Chúa,“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105). Nguyện Chúa giúp cho chúng con nhận ra được giá trị của Lời Chúa để biết mở rộng tâm hồn đón nhận ánh sáng và sức sống Lời Chúa. Ngõ hầu, chúng con được gắn bó với Chúa, được chính sức mạnh của Lời Chúa đổi mới, hướng dẫn, nâng đỡ, ủi an khi gặp khó khăn trong cuộc sống. Amen. 


Thứ Năm Tuần XXXIV Thường Niên ( 26.11.2015)

Lời Chúa: Lc 21,20-28
(20) "Khi anh em thấy thành Giêrusalem bị các đạo binh vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành. (21) Bấy giờ, ai ở miền Giuđê, hãy trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành. (22) Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm.(23) Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó!
"Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ giáng xuống dân này. (24) Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giêrusalem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại.
(25) "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. (26) Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. (27) Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. (28) Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc".
Đền thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ, biểu trưng cho niềm tin tôn giáo và tự hào của người Do Thái, đã vĩnh viễn “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào” dưới gót giầy của người Roma dày xéo, như lời Đức Giêsu tiên báo. Nếu như người Do Thái khóc thương cho một quê hương hoang tàn khói lửa, thì các tín hữu tiên khởi lại hân hoan ra đi mang Tin Mừng hy vọng đến khắp cùng bờ cõi trái đất; sự sụp đổ của thành thánh Giêrusalem trở thành “cơ hội” để Nước Thiên Chúa được hiển trị giữa lòng đời và lòng người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào các biến cố cuộc sống với một nhãn quan và tâm thức hy vọng như các tín hữu tiên khởi đã cảm nghiệm nơi biến cố Giêrusalem năm 70. Sự đổ vỡ và mất mát nào cũng mang lại sự buồn phiền đau đớn, nhưng chúng ta cần vượt trên bình diện sự kiện để khám phá thánh ý Chúa và sống niềm hy vọng trước các biến cố cuộc đời. Thiên Chúa không khuất mặt trước những khổ đau của con người. Trái lại, Ngài luôn hiện diện, nâng đỡ và mang lại tia sáng hy vọng từ trong những thất vọng họ đang nếm trải. Một niềm tin đích thực là niềm tin luôn nhận biết sự hiện diện của Chúa trong những éo le cuộc đời. Vì thế, như Lời Chúa soi rọi, đừng chán nản, thất vọng, buông xuôi mà “hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì giờ cứu rỗi đã gần đến”.
Lạy Chúa, trong mọi nơi và mọi lúc, xin cho chúng con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống lạc quan và tin tưởng trong tình yêu quan phòng của Chúa khi phải đối diện và trải qua những đau thương của cuộc đời. Amen.


26/11. Thứ Năm. Ðn 6,11-27; Lc 21,20-28
Bài Ðọc I - Ðn 6,11-27
Trong những ngày ấy, có những người tọc mạch dò xét, họ bắt gặp Ðaniel đang cầu nguyện kêu xin cùng Chúa mình. Họ liền đến tâu vua về điều lệ rằng: "Tâu đức vua, chớ thì đức vua đã chẳng quy định rằng: trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin cùng thần minh nào hay người nào ngoài đức vua, thì, lạy đức vua, nó sẽ bị ném vào hang sư tử đó sao?" Vua trả lời rằng: "Ðúng, cứ như sắc chỉ Mêđia và Batư, thì không được sai lỗi". Bấy giờ họ lại tâu vua rằng: "Ðaniel thuộc con cái Giuđa phải lưu đày, đã chẳng xem sao lề luật và chiếu chỉ vua đã quy định: mỗi ngày nó đọc kinh cầu nguyện ba lần". Khi nghe biết điều đó, nhà vua rất đỗi buồn rầu. Vua quyết tâm cứu chữa Ðaniel, và cố gắng cứu người cho đến khi mặt trời lặn. Những người ấy hiểu ý vua, liền tâu vua rằng: "Tâu đức vua, xin đức vua biết cho rằng dân Mêđia và Batư có lề luật này là bất cứ sắc chỉ nào đức vua ra, thì không được thay đổi". Bấy giờ vua truyền dẫn Ðaniel ra, và họ ném người xuống hang sư tử. Vua bảo Ðaniel rằng: "Xin Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy sẽ cứu thoát ngươi". Người ta liền lấy hòn đá chận cửa hang, vua lấy nhẫn mình và nhẫn các quan triều thần mà đóng ấn niêm phong, để bảo đảm vụ Ðaniel.
Vua trở về hoàng cung liền đi ngủ, không chịu ăn uống lương thực dâng trước mặt vua, nhưng vua không sao ngủ được. Trời vừa rạng đông, vua liền chỗi dậy, vội vã chạy ra hang sư tử. Khi đến gần cửa hang, vua liền lớn tiếng khóc thương Ðaniel rằng: "Hỡi Ðaniel tôi tớ Thiên Chúa hằng sống, không biết Thiên Chúa ngươi hằng thờ lạy có cứu chữa được ngươi thoát khỏi sư tử chăng?" Ðaniel trả lời rằng: "Tâu đức vua muôn tuổi, Thiên Chúa của thần đã sai thiên sứ đến bịt miệng sư tử lại, nên chúng không làm hại được thần; vì trước mặt Thiên Chúa, thần là người công chính; vả lại tâu đức vua, trước mặt đức vua, thần cũng chẳng làm điều gì sai lỗi. Bấy giờ vua mừng rỡ, truyền kéo Ðaniel ra khỏi hang. Khi Ðaniel ra khỏi hang, người ta thấy người không bị hề hấn gì, vì người đã tin cậy vào Thiên Chúa của người. Vua liền truyền đem các người tố cáo Ðaniel, cùng vợ con của chúng, ném vào hang sư tử, chúng chưa kịp rơi xuống tới đáy hang, thì đã bị sư tử cắn xé nát thịt tan xương.
Bấy giờ vua Ðariô ra chiếu chỉ cho toàn dân, các chi họ, các thổ ngữ, những người đang cư ngụ trong toàn quốc rằng: "Nguyện cho các ngươi được thêm sự bình an. Ta đã ra chiếu chỉ cho các địa phương trong nước ta, ai nấy đều phải kính sợ Thiên Chúa của Ðaniel. Vì chính Người mới là Thiên Chúa hằng sống, và hằng có đời đời; nước Người không hề tan rã, và quyền bính Người tồn tại đến muôn đời. Chính Người là Ðấng Giải thoát và Cứu độ, Người làm những dấu lạ và những việc kỳ diệu trên trời dưới đất: Người đã cứu chữa Ðaniel khỏi hang sư tử".
Tin Mừng - Lc 21,20-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép.
"Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.
"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".
Suy niệm
Câu chuyện trong bài đọc một cho chúng ta thấy sự can thiệp của Thiên Chúa để cứu độ dân Người. Người giải thoát họ khỏi đau khổ bởi bàn tay kẻ dữ và làm cho danh Nguời thêm rạng sáng: “Các địa phương trong nước ta, ai nấy đều phải kính sợ Thiên Chúa của Ðaniel; Chính Người là Ðấng Giải thoát và Cứu độ, Người làm những dấu lạ và những việc kỳ diệu trên trời dưới đất”.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu liệt kê ra một loạt những đau khổ sẽ xảy đến trong “ngày của Chúa”: những hiện tượng kỳ lạ, rùng rợn, ghê sợ…nhưng sau tất cả những thứ đó “Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".
Như thế, điều mà chúng ta có thể làm là kiên nhẫn tin tưởng vào Chúa, với niềm hy vọng qua đau khổ sẽ được Chúa cứu độ đưa vào ánh vinh quang.
Lạy Chúa, Chúa sẽ đến cứu chúng con nhưng trước đó chúng con phải chịu thử thách để rèn luyện đức tin của mình. Xin Chúa tăng thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn được mạnh mẽ trong những cơn nguy biến. Amen.


Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

Thứ Năm Tuần XXXIV Thường Niên ( 26.11.2015)

Lc 21, 20-28; Đn 6, 12-28


Trước những biến động khôn lường trên thế giới, con người ngày nay hoang mang đặt ra những câu hỏi: Liệu có phải sắp tận thế chăng hoặc những sự kiện này có ý nghĩa gì?... Trong những ngày cuối cùng của năm phụng vụ, Tin Mừng Luca ghi lại lời tiên báo, nhắc nhớ cho các môn đệ năm xưa và cho chúng ta hôm nay hãy nhận ra vương quyền và giờ khắc của Người khi xuất hiện những điềm thiêng dấu lạ trên trời, dưới biển. Tuy nhiên, Người cũng trấn an chúng ta: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21,28).

Trong cuộc đời tại thế, Đức Giêsu có lần đã khiển trách người Do Thái nói chung và nhóm Pharisêu nói riêng khi họ chỉ biết nhận xét cảnh sắc đất trời mà không nhận ra sự hiện diện của Nước Trời đang ở giữa họ là chính Ngài. Về phương diện lịch sử, những lời loan báo của Đức Giêsu về sự sụp đổ của thành Giêrusalem đã được ứng nghiệm khi quân La Mã vây hãm và công phá vào năm 70. Giêrusalem đã thực sự sụp đổ “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào” (Lc 21, 5-7) và dân Do Thái đã bị phân tán khắp thế giới vì sự cứng tin của họ không nhận ra ngày giờ của Chúa. Còn ngày nay, những sự kiện, biến cố Đức Giêsu đã tiên báo xưa vẫn không ngừng xảy ra trên toàn thế giới theo một nghĩa nào đó trên quy mô rộng lớn: chiến tranh, động đất, sóng thần, bệnh dịch, tai nạn… Ngoài ra, còn phải kể đến biết bao biến cố lớn nhỏ xảy ra trong cuộc đời mỗi người như: bệnh tật, chia ly, cái chết… Tất cả những biến cố này đã làm cả thế giới kinh hoàng, bất lực trước sự tàn phá của thiên tai và cái chết. Vậy đâu là thái độ của người Kitô hữu hôm nay?

Quả thật, Nước Thiên Chúa thực sự đã và đang hiện diện nơi Đức Kitô và qua Giáo Hội của Ngài như chính Người đã tuyên bố với người Do Thái. Đức Giêsu tiên báo về “ngày giờ” của Người với những hình ảnh uy nghiêm, ghê sợ không phải để làm cho chúng ta sợ hãi, nhát đảm nhưng là để chúng ta nhận ra thánh ý của Người và cam đảm thực hiện điều Người muốn. Những dấu chỉ trên đây, không cho phép ta thờ ơ lãnh đạm với cuộc sống đức tin của chính mình và những người xung quanh. Chúng ta cần tỉnh thức và tích cực canh tân đời sống mình để sẵn sàng cho giờ Chúa đến. Có như thế, chúng ta mới có thể mạnh mẽ, vững vàng trước mọi biến động của thế giới như Đanien hiên ngang trước miệng sư tử của vua Đariô trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Hơn thế nữa, sống thái độ sẵn sàng này là chúng ta đang tích cực góp phần làm cho lời cầu nguyện chúng ta dâng lên mỗi ngày “xin cho triều đại Cha mau đến” sớm được thành toàn.

Lạy Chúa, xin mở con mắt đức tin của con để dù sống giữa thế sự phù hoa, con luôn biết nhạy bén trước những dấu chỉ thời đại mà nhận ra thánh ý của Ngài và mau mắn thực hiện. Chúa ơi, quá khứ đời con xin Chúa thương xót! Tương lai đang đến xin Ngài dẫn đưa và đặc biệt giây phút hiện tại này xin Ngài thánh hóa để chúng con tích cực sống trọn vẹn giây phút này trong tình yêu Chúa và tha nhân hầu cho Nước Chúa được thực sự bắt đầu ngay từ giây phút này. Amen.

THỨ NĂM SAU CN 34 TN NĂM B Lc 21,20-28

Theo lời kể của Josephus, một sử gia người Do Thái, thỉ vị tướng Rôma là Titô đã mang 80.000 quân bao vây Giêrusalem suốt 6 tháng trời, khiến người dân trong thành rơi vào cảnh đói khát cùng cực. Ông kể lại rằng một phụ nữ quê ở Pêrêa vì quá đói đã túm lấy đứa con còn thơ dại, giết con và nướng để ăn. Cũng theo sử gia này, quân Rôma đã dùng gươm để giết hơn một triệu người ở Giêrusalem và Giuđê. Còn những người Do Thái bị bắt làm tù binh là gần một trăm ngàn người. Tất cả đã xảy ra đúng như lời tiên báo của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, lời của Chúa không chỉ ứng nghiệm với thành thánh bị phá hủy vào ngày lễ vượt qua năm 70 đó, mà còn tiên báo về ngày tận cùng của cả thế giới. Khi Ngài đến trong vinh quang để xét xử, có các tai ương làm cho con người lo âu sợ hãi: “Sẽ có những điểm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh tượng biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các tinh tú bầu trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ Con Người sẽ xuất hiện uy nghi trên đám mây . Sau đó Chúa trấn an: “khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên.”
Đứng thẳng để đón Đấng mà họ đã suốt đời thắp đèn chờ đợi. 
Ngẩng đầu để mừng giây phút ơn cứu chuộc đã đến gần. 
Kính thưa…Người ta vẫn hay đoán già đoán non về ngày tận thế. Năm 2000 với biến cố Y 2K qua rồi, đâu thấy tận thế. Cha già Đa Minh Trần Đình Thủ, Ngài là người sáng lập ra Dòng Đức Mẹ Đồng Công, hiện có trụ sở chính tại Thủ Đức. Ngài nói rằng: theo như lời Đức Mẹ tiên báo thì năm 2000 sẽ tận thế, nên Ngài kêu mời các thầy hãy sống thánh thiện và luôn luôn sám hối ăn năn chờ đợi ngày tận thế xảy đến. Năm 2000 tận thế đã không xảy ra trên thế giới nhưng chính năm ấy, Ngài đã đón nhận ngày tận thế của chính đời ngài để vâng nghe tiếng Chúa gọi Ngài về với Chúa, hưởng thọ 104 tuổi. Một vài năm gần đây và nhất là vào những ngày tháng 11 năm 2012, trên các trang mạng, trong nước cũng như quốc tế, người ta đã xôn xao đồn đoán vào ngày 21.12.2012 là ngày tận thế. Vì ngày đó là thời điểm cuối cùng của bộ Lịch người Maya chấm dứt. Một cuộc khảo sát của hãng tin Reuter trong tháng 5. 2012 cho thấy, cứ 10 người thì có 1 người tin như vậy. Nhưng ngày đó cũng đã đi qua rồi mà chưa thấy tận thế.
Những năm cuối thiên niên kỷ thứ hai, rất nhiều thiên tai đã gây ra cho con người. Đặc biệt với cơn siêu bão Hải Yến năm 2013 càn quét đất nước Philippin cướp đi hơn hai ngàn người, phải chăng đó là những dấu hiệu ngày tận thế đang đến gần? Sẽ không có câu trả lời dứt khoát như đinh đóng cột, bởi vì Chúa không muốn cho biết đích xác ngày đó. Ngài chỉ cho biết ngày ấy sẽ tới. ngay cả Chúa Giêsu cũng không biết. Bởi đó thái độ khôn ngoan nhất của chúng ta là luôn luôn sẵn sàng chào đón với thái độ đứng thẳng, và ngẩng đầu lên khi Ngài đến.
Ngày tận thế không biết có xảy ra trong cuộc đời chúng ta hay không. Nhưng ngày chúng ta từ giã cuộc đời giống như Cha Già Đa Minh Trần Đình Thủ, để đi về với Chúa thì chắc chắn có. Mỗi người sẽ phải có ngày tận thế của đời mình. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết chuẩn bị cho mình một thái độ thích hợp trong ngày Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa. 
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào... Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ. Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. amen


THỨ TƯ SAU CN 34 TN B: Lc 21,12-19

Lúc trời còn tối, ngày 16 tháng 11 năm 1989, tại nước El Salvador, một nhóm người có vũ trang đã xâm nhập vào một trường Đại Học ở Trung Mỹ. Chúng đã giết sáu linh mục Dòng Tên và hai mẹ con người giúp việc. Giết xong chúng đã kéo xác ra ngoài vườn và làm những trò man rợ. Các linh mục này đều là những nhà trí thức, có ảnh hưởng trong xã hội. Họ muốn đấu tranh cho xã hội ở Sanvađo không còn bất công xảy ra, người nghèo được tôn trọng, và muốn chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài khiến hơn 70 ngàn người chết. Vì thế, họ đã phải trả giá bằng vụ thảm sát bất ngờ, họ đã chết như những chứng nhân, những vị tử đạo thời mới.
Kính thưa…Trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu nói về những cuộc bách hại xảy ra trước khi Ngài trở lại trong ngày chung thẩm, ngày tận thế. Các môn đệ sẽ phải chịu những gì Thầy mình đã chịu. Họ sẽ bị bắt, bị ngược đãi, bị tù đày, bị đem ra tòa đời. Họ sẽ bị nộp bởi chính người thân, bị mọi người thù ghét, và thậm chí bị giết hại. Tất cả những gì các môn đệ phải chịu đều là vì danh Thầy.
Chính tình yêu trung tín đối với Thầy và giáo huấn của Thầy
đã khiến bao Kitô hữu tự nguyện đón nhận khổ đau và cái chết. Không phải chỉ chối Thầy cách công khai mới mang tội bất trung. Không phải chỉ bước qua thập giá mới là phản bội. Bất cứ khi nào chúng ta bước qua những giá trị ngàn đời của Kitô giáo, như sự thật, sự sống, công bằng, bác ái, nhân phẩm, tự do, lương tâm, khi ấy chúng ta cũng đã chối bỏ Đức Kitô Giêsu của chúng ta rồi. Bất cứ khi nào chúng ta dám xả thân để sống cho những giá trị đó, chúng ta đã làm chứng cho Ngài. Gioan Tẩy Giả đã chết vì nói sự thật mất lòng Hêrôđê. Maria Goretti đã chết vì muốn sống trong sạch. Cha Kônbê đã xin chết thay cho người bạn tù vì lòng bác ái. Tất cả đều được Giáo Hội tôn kính như những vị tử đạo, dù họ không chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu.
Chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu từ khi chúng ta nhận tấm áo trắng ngày Rửa Tội. Theo Chúa Giêsu và thực hiện sứ mạng của Ngài là một việc không dễ dàng và đơn giản của người môn đệ Chúa. Chính Chúa Giêsu cũng hằng kêu mời các môn đệ Ngài phải kiên trì giữ vững niềm tin. Chúng ta nên nhớ rằng: Cuộc sống chiến đấu của người tin theo Chúa Giêsu không phải là cuộc chiến vô vọng. Trái lại, chúng ta phải trông cậy vào một Thiên Chúa toàn năng. Ngài thấy, Ngài biết chúng ta đang chiến đấu. Có Ngài ở với chúng ta, dù có lúc chúng ta cảm thấy như bị cô đơn tuyệt vọng. Như bị Chúa bỏ rơi. Nhưng Ngài từng chút từng chút Ngài lo cho chúng ta. Mạng sống của chúng ta ở đời này có thể bị mất, nhưng nếu biết kiên trì và trung tín, chúng ta sẽ giữ được nó ở đời sau. 
Có ai đó nói rằng: “Nếu đường đời bằng phẳng, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Cuộc đời dường như không bằng phẳng. Cuộc đời luôn có sóng gió, có nghi nan, có những bất trắc xảy ra ngoài dự tính. Kẻ chiến thắng là kẻ kiên nhẫn với lòng dũng cảm vượt qua. Người thất bại là thấy khó bỏ cuộc, thấy khổ lẩn trốn. Chỉ có những ai dám đương đầu với gian nan mới mong có ngày thành công.
Chúa Giê-su Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy kiên nhẫn trong đức tin. Cho dù có phải trả giá bằng những bách hại, bằng những khốn khó, bằng những thua thiệt. Cho dù có phải trả giá vì sự bỏ rơi của cha mẹ, anh em, bạn bè . . . .Nhưng phần thưởng chúng ta thật lớn lao trên quê trời. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài luôn đỡ nâng và phù giúp chúng ta trước những khó khăn cuộc đời.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta trước biết bao sóng gió cuộc đời. Xin Ngài luôn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Amen

Chuyện tình Romeo và Juliet

Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng coi phim, hay đọc truyện hoặc nghe nói đến chuyện tình Romeo và Juliet. Đây là một chuyện tình rất đẹp, rất dễ thương, nhưng lại có một kết thúc thật bi thương ai oán. Câu chuyện được kể như sau: Romeo và Juliet sinh ra trong hai gia đình thuộc hai dòng họ có thù hận truyền kiếp với nhau. Chính vì thế, tình yêu của họ bị ngăn cấm, bị đe doạ bởi những người đứng đầu của hai dòng họ. Sau bao tranh đấu cho tình yêu không thành, họ đành tìm cái chết bên nhau để minh chứng tình yêu của họ. Những người hữu trách và cố chấp của hai dòng họ sau đó đã nhận ra sự ích kỷ, tính bất nhân và sự thù hận đã dẫn đến cái chết bi thương của đôi trai gái. Khi đã nhận ra và ngỏ lời xin lỗi nhau thì đã quá muộn. Dù vậy, có còn hơn không, và nhờ cái chết của đôi bạn này nên đã mở ra một quan hệ mới giữa hai dòng họ.
Một câu chuyện khác: Cách đây ít năm, trong chương trình tin thế giới thu qua vệ tinh, người dân hai nước CroatiaSerbia cũng như thế giới sững sờ và vui mừng vì cuộc gặp gỡ lần đầu tiên của hai lãnh tụ sau những năm chiến tranh khốc liệt giữa hai phe nhóm. Càng sững sờ hơn khi lãnh tụ Serbia công khai đại diện đất nước ngỏ lời xin lỗi với mọi người và từng người dân Croatia và sau đó, lãnh tụ Croatia cũng ngỏ lời như vậy với người dân Serbia. Một lời xin lỗi muộn màng vì cuộc chiến tranh giữa hai nước đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm ngàn người dân vô tội. Nhưng dẫu muộn màng vẫn còn hơn là không có. Lời xin lỗi sẽ mở ra một quan hệ mới, một niềm hy vọng mới cho dân tộc hai nước
Và có lẽ người công giáo chúng ta vẫn còn nhớ trong triều đại Giáo Hoàng 26 năm, chính vị tân hiển thánh GH Gioan Phaolô II, trong một lần kia đã công khai đại diện cho toàn thể GH Công giáo xin lỗi mọi người, xin lỗi các tôn giáo bạn vì những lỗi lầm của GH đã gây ra trong lịch sử.
Kính thưa quí OBACE ! Chuyện đi bước trước trong việc xin lỗi công khai người bị ta xúc phạm, chẳng phải là chuyện mới gì. Đó là chuyện xưa như trái đất. Lần giở trong Kinh thánh Cựu Ước, nhất là trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu Kitô dạy dỗ “ nếu anh đang dâng của lễ mà nhận thấy có sự bất hoà với anh em, thì hãy để của lễ lại trong đền thờ, quay về làm hoà với anh em rồi hãy đến dâng lễ vật”. Không chỉ dạy dỗ mà chính Ngài là mẫu gương cho ta noi theo.Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và vì thế Ngài vô tội. Ngài không phải xin lỗi ai cả. Người phải xin lỗi là chính nhân loại, là chính mỗi người chúng ta mới đúng.
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta bằng việc dựng nên chúng ta. Không những thế, Ngài còn dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, trao cho con người quyền làm chủ mọi loài. Vậy mà con người đã đáp lại tình yêu ấy bằng sự bội phản. Lẽ ra chính con người phải xin lỗi Ngài và cầu mong ơn tha thứ. Nhưng độc đáo thay, chính Ngài đi bước trước , ngài không cần chờ đợi con người xin lỗi, Ngài đã đến để yêu thương họ, yêu thương cách cụ thể và tới cùng, yêu thương đến mức chết cho người minh yêu. Thánh Gioan đã viết: “không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước và sai con một đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta”. “Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, ngay khi chúng ta còn thù địch với Ngài”. Còn gì xúc động và cao cả cho bằng khi tiếng nói cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập giá chính là tiếng nói của yêu thương và tha thứ cho những người đã kết án đóng đinh và giết chết mình: “ lạy Cha ! Xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. 
Fx. Nguyễn Xuân Hùng và Maria Phạm Khánh Ly hai con thân mến !
Một chút nữa đây qua nghi thức của Bí Tích Hôn Phối chúng con từ hai người khác biệt trong hai gia đình khác nhau sẽ chính thức nên một với nhau. Như chúng con đã biết chính Cha đã giáo huấn chúng con trong lớp học dự bị hôn nhân. Cha đã trình bày cho chúng con biết: ngày thành hôn của chúng con hôm nay qua bí tích hôn phối chỉ là khởi đầu của hành trình nên một của chúng con mà thôi. Và như thế, càng ngày cuộc hành trình nên một càng khó khăn hơn do những khác biệt ngày càng được tỏ rõ nơi mỗi người. Chính vì những khác biệt này, chắc chắn không ít lần chúng con, ngay từ khi mới quen nhau, đã nhiều lần làm mất lòng nhau, gây gổ to tiếng, giận hờn nhau. Chúng con đừng sợ, bởi đây là chuyện thường tình của đời sống hôn nhân. Điều quan trọng chính là chúng con phải có tình yêu chân thành với nhau và với những người thân yêu trong gia đình. Mà muốn có tình yêu chân thành thì chúng con phải không ngừng kín múc từ Thiên Chúa qua Thánh Lễ, qua Lời Chúa, qua cầu nguyện và giờ kinh tối trong gia đình. Hãy chủ động làm hòa với nhau nếu như gia đình chúng ta đang có sự bất hòa và mâu thuẫn. Ai cũng được, hãy chủ động nhận lỗi, và người kia cũng phải có thiện chí cải thiện mối quan hệ sao cho tốt đẹp, sao cho trong ấm ngoài êm. Miễn là sau cơn mưa trời lại trong sáng như chưa bao giờ mưa. Miễn là cho cuộc sống sẽ trở nên vui tươi hơn. 
Để kết thúc bài chia sẻ hôm nay, xin được gửi tới quý ông bà anh chị em, đặc biệt với hai con Hùng và Ly lời của một ai đó nói về bí quyết để xây dựng gia đình Kitô giáo hạnh phúc: “tình yêu cần được rửa tội mỗi ngày và cưới nhau mỗi sáng”, hay nói cách dễ hiểu : hạnh phúc gia đình không thể thiếu lời xin lỗi và lời cam kết yêu thương nhau trong từng phút từng giây của cuộc sống.
Nguyện xin Thiên Chúa chúc phúc cho tình yêu của chúng con hôm nay và mãi mãi. Amen.

Ngày xưa, khi nhắc đến các Thánh tử đạo, nhất là các vị tử đạo Việt nam, chúng ta thường hình dung đến những cực hình ghê sợ mà người ta nghĩ ra để hành hạ các ngài. Các cực hình dã man ấy không những không làm lung lạc đức tin của các ngài, mà còn khiến các ngài càng mạnh mẽ hơn trong việc đón nhận và tuyên xưng đức tin. Ngày nay, những cái chết vì đức tin như vậy vẫn còn diễn ra dưới nhiều hình thức tử đạo mới. Hằng năm trên thế giới vẫn có hàng ngàn người đang phải chịu khốn khổ, bị kỳ thị vì đức tin của mình. Nhiều người đã phải bỏ quê hương để đi tìm một chỗ nương thân an toàn, ví dụ như tại Irăc và Sirya trong năm vừa qua. Nhà nước Hồi giáo cực đoan IS đã tuyên bố bất cứ ai kêu tên Giêsu mà người khác nghe được thì bị xử bắn. Vì thế, trong năm qua, có đến hàng ngàn Kitô hữu đã bị giết tại Sirya chỉ vì họ nhận mình là Kitô hữu. Cũng giống như thế, tại quốc gia Bắc Hàn, các Kitô hữu phải sống một cuộc sống hết sức khó khăn, bị o ép và khủng bố, có thể bị tù đày, bị giết chết. Tại quốc gia này, cuốn Kinh Thánh trở thành cuốn sách bị cấm. Ai đọc hoặc giữ cuốn Kinh Thánh trong người, có thể bị tử hình.

Tại Việt Nam, kể từ những ngày đầu tiên khi Tin Mừng được gieo vãi trên quê hương đất nước cho đến nay, người Kitô hữu dường như liên tục bị bách hại về niềm tin của mình. Tổ tiên của chúng ta, các vị tử đạo Việt Nam, đã đón nhận đức tin trong hoàn cảnh hết sức khó khăn như thế. Trong khi những người khác hoàn toàn sống theo tâm tình tôn giáo dân gian, sống một cuộc sống thoải mái dễ dãi, thì tổ tiên chúng ta đã chấp nhận đi vào con đường của Tin Mừng. Các ngài đi theo con đường hẹp, chấp nhận tuân theo giới răn lề luật của Thiên Chúa, từ chối các thần linh của dân ngoại. Các vị tử đạo đã sống đúng như lời sách Khôn Ngoan đã nói : Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa, không một cực hình nào có thể động tới được các ngài…Trước mắt người đời, chúng tưởng như các ngài đã chết, nhưng thực ra các ngài vẫn đang sống… Người đời nghĩ rằng các ngài bị trừng phạt, nhưng các ngài vẫn chứa chan hy vọng. Ba trăm năm đầu tiên là quãng thời gian hết sức khó khăn đối với các tín hữu, thế nhưng, dường như những cơn đàn áp càng khốc liệt, thì Tin Mừng lại càng được loan truyền và con số những người tin theo Chúa lại càng gia tăng. Các ngài bị hành hạ nhưng các ngài vẫn hy vọng vào phần thưởng Nước Trời mà Thiên Chúa đã hứa.
Bước sang thế kỷ 20 – 21, tình hình bắt bớ, giết hại những tín hữu có phần lắng xuống, nhưng không phải đã được tự do hoàn toàn. Người Kitô hữu Việt Nam lại trải qua một hình thức tử đạo khác. Họ vẫn phải cố gắng sống và thể hiện niềm tin của mình trong một môi trường xã hội mới. Nhiều nơi, các tín hữu vẫn bị o ép giới hạn cách này cách khác. Nhiều người đã bị tù tội chỉ vì mang danh là người Kitô hữu, vì nhiệt tâm phục vụ. Nhiều tín hữu đã chết trong tù hoặc nơi rừng sâu nước độc, chỉ vì muốn sống đến cùng đòi hỏi của Tin Mừng. Cuộc tử đạo của chúng ta hôm nay là liên tục sống tình yêu thương và tha thứ. Có lẽ vì vậy mà Giáo hội đang hoàn thiện hồ sơ để tôn phong Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fancis Nguyễn Văn Thuận, lên bậc Chân phước Tử đạo cho dù Ngài không trực tiếp chết vì đạo. Giáo hội đã nhìn thấy gương sống yêu thương và tha thứ của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận như cuộc tử đạo liên tục. Trong thánh lễ an táng ngài, Đức Thánh Giáo Hoàng JP II và cả giáo triều lúc đó đã mặc phẩm phục màu đỏ thay cho màu tím truyền thống. Trong quan tài của Đức Hồng Y, người ta đã đặt vào đó một tấm bia bằng đồng ghi tóm tắt lịch sử cuộc đời của ngài. Việc làm như thế cho thấy sự kính trọng mà giáo triều đã dành cho ngài như truyền thống Giáo hội vẫn làm cho các vị tử đạo.
Đức hồng Y Fancis đã tử đạo bằng đời sống yêu thương và tha thứ cho những kẻ bách hại ngài. Sau hàng chục năm tù tội bất công, vậy mà không bao giờ ngài kêu than oán trách. Trái lại, ngài luôn cầu nguyện cho những kẻ giam giữ mình. Trong các tác phẩm để lại, cũng như các cuộc nói chuyện, ngài kể về những năm tháng tù đầy như là những năm tháng ngài được tĩnh tâm, được sống thân mật với Chúa và làm việc mục vụ bằng lời cầu nguyện. Ngài tuyệt đối không dùng một lời lẽ cay cú hay thù oán, nhưng thay vào đó là một tâm hồn bình an, thanh thản đón nhận ý Chúa.
Kính thưa…Chúng ta đang sống trong thời hiện đại, chúng ta cũng sẽ phải trải qua những cuộc tử đạo hiện đại và trở thành những vị tử đạo hiện đại. Chúng ta sẽ không chết vì gươm giáo hoặc đạn bắn, nhưng chúng ta sẽ phải chấp nhận chết, chấp nhận thiệt thòi vì Tin Mừng, vì sống đến cùng của lời mời gọi của Chúa : Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Ta… Chúng ta cũng sẽ phải hết mình để chu toàn vuông tròn giới răn lề luật của Chúa và Hội Thánh.
Chúng ta sẽ phải tử đạo bằng đổ mồ hôi và nước mắt trong gia đình để bảo vệ sự vĩnh viễn của hôn nhân và để xây dựng một gia đình Công Giáo đúng nghĩa. Trước sự tấn công của các trào lưu xã hội trên các gia đình, chúng ta sẽ phải là những chiến sĩ chấp nhận hy sinh, không ngại thương tích để bảo vệ hạnh phúc và phẩm giá cao quý của đời sống hôn nhân và gia đình. Trước sức ép của cuộc sống vật chất, chúng ta vừa phải lao vào cuộc sống để tìm kiếm cơm ăn áo mặc cho con cái, nhưng cũng phải chấp nhận rướm máu vì giữ giới luật công bằng, yêu thương và bác ái. 
Các bạn trẻ cũng phải tử đạo liên tục để sống đúng với ơn gọi là một người trẻ Công Giáo trong xã hội biến chuyển này. Chúng ta sẽ phải đổ máu để bảo vệ sự tinh tuyền của linh hồn và thân xác khỏi cơn bão của hưởng thụ ích kỷ, phim ảnh sách báo và lối sống buông theo dục vọng. Chúng ta vẫn phải sống, phải bước đi với mọi người trong xã hội, nhưng vẫn phải chiến đấu để khỏi đánh mất mình và mục đích cuộc đời trong dòng chảy của xã hội hôm nay.
Như thế, cuộc tử đạo ngày nay xem ra không kém phần khốc liệt như cuộc tử đạo ngày xưa của các vị tiền nhân. Xin Chúa qua sự bầu cử của Đức Maria và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, giúp chúng ta là con cháu của các ngài, biết sống khí tiết anh hùng của các Tiền Nhân, dám sống cho tới cùng lý tưởng của Tin Mừng trong thời đại hôm nay. Amen.

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

THỨ HAI SAU CN 34 TN B: LC 21,1-4

Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu, một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật làm quà Giáng sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em này đã dành dụm mọi chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 20 đồng, em quyết định đón xe đò từ làng quê lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắc nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em bé xuống xe, co ro lội bộ băng qua cánh đồng ngập tuyết và gió lốc lạnh buốt. Ông hiệu trưởng nghe báo có người đang đợi ở phòng khách muốn gặp ông. Ông vô cùng kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiền chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó.
Kính thưa…Tuần lễ cuối cùng của phụng vụ năm B đang dần kết thúc để nhường chỗ cho Phụng vụ Năm C bắt đầu từ CN thứ nhất mùa Vọng vào ngày 29-11 tới đây. Các bản văn lời Chúa trong tuần kết thúc này sẽ nhắc chúng ta về thời đại cánh chung. Khởi đầu từ hôm nay, phụng vụ Lời Chúa dừng lại ở biến cố nhỏ bé, đặc biệt đã xảy ra tại đền thờ Giêrusalem thời Chúa Giêsu. Đó là hai đồng xu nhỏ của người đàn bà góa nghèo. Em bé nghèo trong câu chuyện cũng tương tự như trường hợp của bà góa nghèo trong câu chuyện Tin mừng. Quả thực, xã hội Do thái không có những quy định bảo vệ quyền lợi các góa phụ, cho nên, họ rất bị thiệt thòi : tài sản của chồng thì không được hưởng (con cái họ hưởng hết), gia đình cha mẹ ruột của họ cũng không còn lo lắng cho họ bao nhiêu nữa. Vì thế, trong Thánh Kinh, bà góa, trẻ mồ côi và ngoại kiều là những hạng người xấu số nhất và nghèo nhất. Như thế, trong cuộc sống con người, còn gì hẩm hiu hơn thân phận của một người như thế. Thế nhưng, điều mà Chúa Giêsu đã ca ngợi ở hành động của người đàn bà này, đó là tấm lòng của bà ta dành cho Chúa và đền thờ rất lớn lao, vì nó động chạm đến sự sinh tồn của bà trong cuộ sống: bà đã dâng cho Chúa không phải là của dư thừa mà lại là tất cả cái bà có để sống. Thiên Chúa không hề muốn bóc lột người phụ nữ nghèo, Ngài không nhẫn tâm đòi hỏi bà phải hy sinh đến độ tự giết chết sự sống còn. Nhưng chính lòng yêu mến Thiên Chúa, và sự quí trọng ngôi nhà đền thờ của Thiên Chúa, mà bà ta tự nguyện dâng hiến cho Chúa điều mà bà ta có quyền hưởng. Chỉ vì tình yêu mến Chúa cao cả, bao la, mà bà ta đã có cử chỉ quảng đại như vậy. Bà ta không tiếc gì, và không màng đến bản thân.
Kính thưa…Lời Chúa hôm nay đã mời gọi chúng ta hãy suy nghĩ về sự lựa chọn của chúng ta trong nếp sống hàng ngày của mình. Chúng ta có luôn hướng về Chúa. Chúng ta có sẵn sàng chấp nhận tự nguyện hy sinh bản thân để chúng ta sống cho Chúa, sống vì Chúa, sống nhờ Chúa không ? Và trước mắt Chúa, hai đồng xu nhỏ của người đàn góa nghèo lại hóa ra cao quí hơn tiền của dư thừa dâng cúng cho Chúa của những người giầu có, Hãy sống tinh thần của Bà góa. Đó là điều Chúa muốn nơi chúng ta hôm nay. Amen.

LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VN

Ngày xưa, khi nhắc đến các Thánh tử đạo, nhất là các vị tử đạo Việt nam, chúng ta thường hình dung đến những cực hình ghê sợ mà người ta nghĩ ra để hành hạ các ngài. Các cực hình dã man ấy không những không làm lung lạc đức tin của các ngài, mà còn khiến các ngài càng mạnh mẽ hơn trong việc đón nhận và tuyên xưng đức tin. Ngày nay, những cái chết vì đức tin như vậy vẫn còn diễn ra dưới nhiều hình thức tử đạo mới. Hằng năm trên thế giới vẫn có hàng ngàn người đang phải chịu khốn khổ, bị kỳ thị vì đức tin của mình. Nhiều người đã phải bỏ quê hương để đi tìm một chỗ nương thân an toàn, ví dụ như tại Irăc và Sirya trong năm vừa qua. Nhà nước Hồi giáo cực đoan IS đã tuyên bố bất cứ ai kêu tên Giêsu mà người khác nghe được thì bị xử bắn. Vì thế, trong năm qua, có đến hàng ngàn Kitô hữu đã bị giết tại Sirya chỉ vì họ nhận mình là Kitô hữu. Cũng giống như thế, tại quốc gia Bắc Hàn, các Kitô hữu phải sống một cuộc sống hết sức khó khăn, bị o ép và khủng bố, có thể bị tù đày, bị giết chết. Tại quốc gia này, cuốn Kinh Thánh trở thành cuốn sách bị cấm. Ai đọc hoặc giữ cuốn Kinh Thánh trong người, có thể bị tử hình.
Tại Việt Nam, kể từ những ngày đầu tiên khi Tin Mừng được gieo vãi trên quê hương đất nước cho đến nay, người Kitô hữu dường như liên tục bị bách hại về niềm tin của mình. Tổ tiên của chúng ta, các vị tử đạo Việt Nam, đã đón nhận đức tin trong hoàn cảnh hết sức khó khăn như thế. Trong khi những người khác hoàn toàn sống theo tâm tình tôn giáo dân gian, sống một cuộc sống thoải mái dễ dãi, thì tổ tiên chúng ta đã chấp nhận đi vào con đường của Tin Mừng. Các ngài đi theo con đường hẹp, chấp nhận tuân theo giới răn lề luật của Thiên Chúa, từ chối các thần linh của dân ngoại. Các vị tử đạo đã sống đúng như lời sách Khôn Ngoan đã nói : Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa, không một cực hình nào có thể động tới được các ngài…Trước mắt người đời, chúng tưởng như các ngài đã chết, nhưng thực ra các ngài vẫn đang sống… Người đời nghĩ rằng các ngài bị trừng phạt, nhưng các ngài vẫn chứa chan hy vọng. Ba trăm năm đầu tiên là quãng thời gian hết sức khó khăn đối với các tín hữu, thế nhưng, dường như những cơn đàn áp càng khốc liệt, thì Tin Mừng lại càng được loan truyền và con số những người tin theo Chúa lại càng gia tăng. Các ngài bị hành hạ nhưng các ngài vẫn hy vọng vào phần thưởng Nước Trời mà Thiên Chúa đã hứa.
Bước sang thế kỷ 20 – 21, tình hình bắt bớ, giết hại những tín hữu có phần lắng xuống, nhưng không phải đã được tự do hoàn toàn. Người Kitô hữu Việt Nam lại trải qua một hình thức tử đạo khác. Họ vẫn phải cố gắng sống và thể hiện niềm tin của mình trong một môi trường xã hội mới. Nhiều nơi, các tín hữu vẫn bị o ép giới hạn cách này cách khác. Nhiều người đã bị tù tội chỉ vì mang danh là người Kitô hữu, vì nhiệt tâm phục vụ. Nhiều tín hữu đã chết trong tù hoặc nơi rừng sâu nước độc, chỉ vì muốn sống đến cùng đòi hỏi của Tin Mừng. Cuộc tử đạo của chúng ta hôm nay là liên tục sống tình yêu thương và tha thứ. Có lẽ vì vậy mà Giáo hội đang hoàn thiện hồ sơ để tôn phong Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fancis Nguyễn Văn Thuận, lên bậc Chân phước Tử đạo cho dù Ngài không trực tiếp chết vì đạo. Giáo hội đã nhìn thấy gương sống yêu thương và tha thứ của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận như cuộc tử đạo liên tục. Trong thánh lễ an táng ngài, Đức Thánh Giáo Hoàng JP II và cả giáo triều lúc đó đã mặc phẩm phục màu đỏ thay cho màu tím truyền thống. Trong quan tài của Đức Hồng Y, người ta đã đặt vào đó một tấm bia bằng đồng ghi tóm tắt lịch sử cuộc đời của ngài. Việc làm như thế cho thấy sự kính trọng mà giáo triều đã dành cho ngài như truyền thống Giáo hội vẫn làm cho các vị tử đạo.
Đức hồng Y Fancis đã tử đạo bằng đời sống yêu thương và tha thứ cho những kẻ bách hại ngài. Sau hàng chục năm tù tội bất công, vậy mà không bao giờ ngài kêu than oán trách. Trái lại, ngài luôn cầu nguyện cho những kẻ giam giữ mình. Trong các tác phẩm để lại, cũng như các cuộc nói chuyện, ngài kể về những năm tháng tù đầy như là những năm tháng ngài được tĩnh tâm, được sống thân mật với Chúa và làm việc mục vụ bằng lời cầu nguyện. Ngài tuyệt đối không dùng một lời lẽ cay cú hay thù oán, nhưng thay vào đó là một tâm hồn bình an, thanh thản đón nhận ý Chúa.
Kính thưa…Chúng ta đang sống trong thời hiện đại, chúng ta cũng sẽ phải trải qua những cuộc tử đạo hiện đại và trở thành những vị tử đạo hiện đại. Chúng ta sẽ không chết vì gươm giáo hoặc đạn bắn, nhưng chúng ta sẽ phải chấp nhận chết, chấp nhận thiệt thòi vì Tin Mừng, vì sống đến cùng của lời mời gọi của Chúa : Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Ta… Chúng ta cũng sẽ phải hết mình để chu toàn vuông tròn giới răn lề luật của Chúa và Hội Thánh.
Chúng ta sẽ phải tử đạo bằng đổ mồ hôi và nước mắt trong gia đình để bảo vệ sự vĩnh viễn của hôn nhân và để xây dựng một gia đình Công Giáo đúng nghĩa. Trước sự tấn công của các trào lưu xã hội trên các gia đình, chúng ta sẽ phải là những chiến sĩ chấp nhận hy sinh, không ngại thương tích để bảo vệ hạnh phúc và phẩm giá cao quý của đời sống hôn nhân và gia đình. Trước sức ép của cuộc sống vật chất, chúng ta vừa phải lao vào cuộc sống để tìm kiếm cơm ăn áo mặc cho con cái, nhưng cũng phải chấp nhận rướm máu vì giữ giới luật công bằng, yêu thương và bác ái. 
Các bạn trẻ cũng phải tử đạo liên tục để sống đúng với ơn gọi là một người trẻ Công Giáo trong xã hội biến chuyển này. Chúng ta sẽ phải đổ máu để bảo vệ sự tinh tuyền của linh hồn và thân xác khỏi cơn bão của hưởng thụ ích kỷ, phim ảnh sách báo và lối sống buông theo dục vọng. Chúng ta vẫn phải sống, phải bước đi với mọi người trong xã hội, nhưng vẫn phải chiến đấu để khỏi đánh mất mình và mục đích cuộc đời trong dòng chảy của xã hội hôm nay.
Như thế, cuộc tử đạo ngày nay xem ra không kém phần khốc liệt như cuộc tử đạo ngày xưa của các vị tiền nhân. Xin Chúa qua sự bầu cử của Đức Maria và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, giúp chúng ta là con cháu của các ngài, biết sống khí tiết anh hùng của các Tiền Nhân, dám sống cho tới cùng lý tưởng của Tin Mừng trong thời đại hôm nay. Amen.