Thứ Hai, 30 tháng 11, 2015

THỨ BA TUẦN 1 MÙA VỌNG B( 01.12.2015)

 Lc 10, 21-24
Khi ấy, được Thánh Thần tác động, Ðức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” Rồi Ðức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”

Suy niệm:
Chuyện kể rằng: Ở một vùng đất nọ có một nhà hiền triết nổi tiếng là khôn ngoan và thánh thiện, người dân trong vùng ai có vấn đề gì chưa thông hiểu hay không giải quyết được đều đến thỉnh ý của nhà hiền triết và khi ra về lòng họ luôn vui mừng hân hoan vì nhận được những chỉ dẫn, những lời khuyên bổ ích. Tiếng tăm về nhà hiền triết tài đức ngày một lan rộng nên có nhiều người đến tìm gặp ngài.
Nghe biết sự tình như thế, một giáo sư trong vùng mới đâm nghĩ bụng: ta phải đến thỉnh giáo người mà thiên hạ đồn đại là khôn ngoan để xem sự thật thế nào.
Tiếp vị giáo sư trong một ngôi nhà ấm cúng, sau một vài câu hỏi chào thăm, nhà hiền triết mới mời vị giáo sư dùng trà. Khi rót trà, nhà hiền triết cứ rót mặc cho ly nước đã đầy để nước chảy tràn ra ngoài. Vị giáo sư mới thầm nghĩ rằng: “người mà thiên hạ  cho là bậc khôn ngoan hoá ra chỉ là một ông già lẩn thẩn, đãng trí”. Không thể chịu nỗi vị giáo sư mới thốt lên: “ Thưa ông, ly nước đã đầy, sao ông có thể rót thêm được nữa”. Lúc này, nhà hiền triết mới dừng lại và bình thản nói: đúng thế, ly trà đã đầy sao có thể rót thêm được. Giống như ly trà, Ông đến với tôi khi lòng chất đầy thành kiến và kêu ngạo thì làm sao tôi có thể nói với ông về những triết thuyết của tôi”.
 Câu chuyện kể trên không mấy khó để mỗi người chúng ta rút ra cho mình bài học nhân bản là cần lắm sự chân thành, khiêm nhu, đơn sơ trước người khác và trước cuộc sống. Lẽ đời vốn dĩ luôn quý chuộng những con người mặc lấy cho mình tâm tình như thế và ngược lại, thói kêu căng tự phụ cho dẫu là ai đi chăng nữa đều đáng khinh chê, lên án.
Tin Mừng ngày hôm nay cũng đã nói lên điều đó, khi Đức Giê-su lòng đầy hoan hỷ trong Thánh Thần đã thốt lên: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen cha vì cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những mầu nhiệm nước trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mon. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha".
Trước tiên, người bé mọn Chúa Giê-su muốn nói đến là ai? Một câu trả lời dễ dàng khi soi dọi vào bối cảnh của  đoạn Tin Mừng hôm nay đó là  các môn đệ nói riêng và những người mặc lấy thái độ khiêm nhường, biết lắng nghe lời Chúa nói chung. Đoạn Tin Mừng tường thuật lại việc các ông trở về lòng đầy hân hoan vì nhân danh Đức Giêsu mà họ chữa được các bệnh tật, trừ được quỷ. Niềm tin nhưng không mà Thiên Chúa mặc khải cho các ông cần lắm thái độ khiêm nhường, tín thác, đơn sơ vì họ xác tín rằng chính quyền năng Thiên Chúa đã làm những việc ấy và họ chỉ là những khí cụ để Thiên Chua thi thố tình thương của Nnười mà thôi.
Cũng thế, những bậc khôn ngoan thông thái mà Chúa ám chỉ không ai khác chính là những kinh sư, những Pharisêu, những nhà thông luật cho rằng mình thông minh, thuộc luật Môsê và đã đủ khôn ngoan để cầm nắm chìa khoá của sự trường cửu. Đó là những nhà thông thái chỉ gói gọn trong bối cảnh Tin Mừng nhưng sâu xa hơn, đó có thể còn có tôi và có bạn khi chúng ta với một chút kiến thức cỏn con đã huyênh hoang, kêu ngạo cho mình là nhất , đã thấu hiểu lẽ đời, muốn làm thầy thiên hạ, xem người khác bằng nữa con mắt... thái độ ấy chẳng phải như vị giáo sư ở câu chuyện trên ư, chẳng phải chính chúng ta cũng thấm nhiễm men Pharisêu, men kinh sư biệt phái ư. Thái độ ấy, chưa xét đến giá trị Tin Mừng, chỉ xét đến đạo đức luân thường xã hội thôi cũng đáng bị lên án.
Thánh Phaolô trong thư gửi đến giáo đoàn Cô-rin-tô cũng nhắn nhủ những tâm tình ấy khi ngài nói: "Những gì thế gian cho là điên dại thì  Thiên Chúa đã chọn để hạ gục những kẻ khôn ngoan và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ gục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì đã có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người" (1Cr 1, 27 - 29).
Dừng lại giây lát để suy xét  một vấn đề là chúng ta không thể đem thước đo giá trị của con người để mặc định cho Thiên Chúa trong việc nhận định tốt xấu đúng sai, nhưng thiết nghĩ, Thiên Chúa luôn yêu quý những tâm hồn đơn sơ, chân thành lắng nghe lời Chúa hơn là những người tự coi mình là thầy dạy của thiên hạ. Điều này được minh chứng khá rõ khi Chúa tỏ mình ra cho Ba Vua, khi gọi Lêvi- người thu thuế, khi ghé nhà GiaKêu- một người giàu có, khi trò chuyện cùng Nicôđêmô - một kinh sư lỗi lạc trong dân Do Thái. Cần phải minh định điều cốt lõi ở đây là, không phải Thiên Chúa là đấng thiên tư tây vị, chỉ yêu chuộng những người nghèo khổ, đơn sơ, bần hàn, mà lại “ngó lơ” những người khôn ngoan, thông thái, giàu có mà chính xác là Chúa yêu chuộng những tâm hồn đơn sơ, chân thành và khiêm nhường dẫu cho họ là người thông thái hay không thông thái, cao sang hay bần hàn, giàu có hay nghèo khó, cốt lõi là thái độ đón nhận Lời Chúa như thế nào.
Xin được mượn lời thánh vịnh 130 (131) để thể hiện thái độ đơn sơ, khiêm hạ trước Thiên Chúa Tình Yêu.
Lòng con chẳng dám tự cao
Mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi!
Đường cao vọng chẳng đời nào bước,
Việc diệu kì vượt sức chẳng cầu;
Hồn con con vẫn trước sau
Giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
Trong con hồn lặng lẽ yên vui.
Cậy vào Chúa Israel ơi,
Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm
Bước vào Mùa vọng – mùa của sự trông đợi, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình đơn sơ, khiêm nhu, chân thành để thực sự khao khát, mong chờ Chúa đến bằng tất cả tâm hồn, chứ không phải là một thái độ hờ hững, xem thường biến cố Giáng Sinh  như một sự luân chuyển thường niên của năm phụng vụ. Hãy khiêm nhường tạ ơn Chúa vì hồng ân Đức Tin mà Chúa đã mặc khải cho chúng ta. Hãy Mặc lấy sự khiêm hạ, chân thành để lắng nghe, đón nhận Lời Chúa vì Chúa luôn yên mến những tâm hồn bé nhỏ, đơn sơ và khiêm nhu. A-men.
Phaolô Lê Quốc Bảo SDB


Chúa Nhật II Mùa Vọng, C (Lu-ca 3: 1-6)



          Bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng giới thiệu Chúa Giê-su là Con Người sẽ đến xét xử trần gian và sứ điệp của Người kêu gọi ta phải chuẩn bị đón tiếp Người, hôm nay Phụng vụ Lời Chúa trình bày một gương mẫu đáp lại sứ điệp của Chúa:  ông Gio-an Tiền hô.  Ông mời gọi người ta chuẩn bị đón tiếp Chúa.  Nhưng lời mời gọi ấy lại chính là những điều ông đã sống và giờ đây ông đem chia sẻ với mọi người.  Vậy ông Gio-an là ai và sứ điệp của ông là gì?

1)  Thân thế và sứ mệnh của ông Gio-an Tiền hô

          Trước khi viết về sứ mệnh của ông Gio-an Tiền hô, thánh sử Lu-ca đã ghi lại bối cảnh lịch sử xã hội và tôn giáo thời ấy.  Các lãnh tụ đời cũng như đạo đều được nhắc tới. Đây không chỉ là cách viết của một sử gia nói có sách mách có chứng, nhưng hơn thế nữa, thánh Lu-ca còn muốn trình bày một bối cảnh mà ông Gio-an sẽ thi hành sứ mệnh là kêu gọi người ta hối cải, nghĩa là cần phải đổi mới cả hai phương diện xã hội cũng như tôn giáo.
          Thân thế của ông Gio-an đã được nói đến trong Tin Mừng Lu-ca, chương 1.  Cuộc ra đời của em bé Gio-an mang những nét đặc biệt, cho thấy bàn tay Thiên Chúa can thiệp rõ ràng.  Mẹ em có thai trong tuổi già.  Cha em bị câm một thời gian vì hoài nghi lời sứ thần Gáp-ri-en tiên báo.  Mới là một bào thai, em bé đã biết nhảy mừng trong bụng mẹ khi bà đến viếng thăm Mẹ Ma-ri-a.  Ngay việc đặt tên cho em cũng khác thường, không phải bằng cái tên của họ hàng muốn đặt cho, nhưng cái tên Gio-an do thiên sứ truyền cho ông Da-ca-ri-a phải đặt.  Càng lớn lên, tinh thần cậu bé “càng vững mạnh”.  Khi lớn khôn, “cậu sống trong trong hoang địa, cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en”.
Trong hoang địa, Gio-an lãnh nhận sứ mệnh từ Thiên Chúa và ông chọn lựa một địa bàn hoạt động cũng rất khác thường, là “đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”.  Ta thử tưởng tượng mình sống vào thời ấy để thấy ông Gio-an thi hành sứ mệnh.  Phương tiện giao thông chỉ là đôi chân dày dạn.  Thế mà ông Gio-an đã đi khắp vùng ven sông Gio-an, đến các làng mạc chung quanh để rao giảng về sự sám hối.  Kèm theo lời giảng, ông chọn lựa một nghi thức để giúp người ta biểu lộ tâm tình sám hối, đó là phép rửa.  Mục đích sứ mệnh của ông là làm sao giúp người ta sẵn sàng “để được ơn tha tội”.  Ông ý thức rõ ràng phép rửa của ông chỉ là một nghi thức dùng nước để giúp người ta ý thức tình trạng tội lỗi của họ thôi, vì nước không thể rửa sạch tội lỗi cho ai được.  Chỉ có Đấng đến sau ông là Đức Ki-tô mới “làm phép rửa trong Thánh Thần” (Mc 1:8), nghĩa là chỉ Đức Ki-tô mới có thể tẩy rửa tội lỗi ta trong công trình cứu độ của Người.  Do đó, sứ mệnh của ông Gio-an là làm tiếng hô kêu gọi người ta chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn cứu độ, “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”.

2)  Sứ điệp sám hối

          Dọn đường cho Đức Chúa đến, lối cho Người đi vào tâm hồn ta là mục tiêu của sứ điệp Gio-an.  Nhưng nếu đường đã bị cắt, lối đã bị ngăn thì làm sao Chúa đến với ta được. Chúa không độc đoán dùng quyền năng của Người bắt ta phải để cho Người đến với ta, trái lại Người muốn có một cuộc gặp gỡ đồng tình, do ý muốn của đôi bên.  Nếu Người đã xếp bỏ thời gian và không gian vô biên của Thiên Chúa lại để chấp nhận chịu hạn hẹp trong thời gian và không gian của loài người qua Đức Ki-tô mà đến với ta, thì Người cũng mong ta hãy phá bỏ đi những giới hạn tâm hồn của ta để mở lòng cho Người tới.  Ngôn sứ I-sai-a đã dùng những hình ảnh thật quen thuộc để mô tả những giới hạn tâm hồn ấy.  Đó là thung lũng, núi đồi, quanh co, lồi lõm.  Đối với kỹ thuật và cơ giới hiện nay, thực hiện một con đường tại nơi gặp những trở ngại như trên không còn là vấn đề khó khăn.  Máy móc tối tân có thể giúp người ta xây một xa lộ trong thời gian thật ngắn.  Nhưng người ta lại bó tay không thể làm một con đường dẫn Chúa vào tâm hồn một người không muốn có sự thay đổi nào.
          Ông Gio-an chỉ lập lại sứ điệp của ngôn sứ I-sai-a thôi.  Sứ mệnh của ông quả đơn giản, là kêu gọi mỗi người hãy tự mình dọn đường lối cho Chúa đến.  Đúng vậy, ngoài Chúa ra, ai có thể biết rõ được tâm hồn người khác.  Mà giả như người khác có biết được những thung lũng, núi đồi, quanh co và lồi lõm của tâm hồn ta, thì họ cũng chẳng có thể làm gì hơn ngoài việc nhắc nhở ta sửa đổi.  Ông Gio-an đã đem cả cuộc đời để làm công việc đơn giản là nhắc nhở kêu gọi người ta. Tiếng hô của ông trong hoang địa đã vượt biên tới tận kinh thành Giê-ru-sa-lem.  Mọi người mọi giới đạo đời đã đến xin ông cho biết họ phải làm gì.  Có nhiều người làm theo lời chỉ dạy.  Nhưng cũng có nhiều người chẳng những không muốn nghe mà còn muốn dập tắt tiếng hô của ông.  Ông chấp nhận mọi thử thách và cả cái chết đau thương để chu toàn sứ mệnh nhắc nhở ấy.

3)  Những Gio-an Tiền hô hôm nay

          Khi đem sứ điệp sám hối đến cho dân chúng, bản thân ông Gio-an đã sống sứ điệp ấy.  Ông từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của thành phố và những tham vọng để chọn lối sống trong hoang địa, giống như lấp đầy đi cái thung lũng tham sân si của ông.  Ông bạt phẳng núi đồi kiêu căng ganh tị ngấm ngầm trong lòng, để xác tín chỗ đứng của ông sau Chúa Giê-su:  “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.  Ông cũng không quanh co đánh lận con đen, vỗ ngực nói với dân chúng đang ngưỡng mộ ông:  Tôi chính là Đấng Mê-si-a đây! (xem Lc 3:15).
          Mẫu người Gio-an đã lấy đời mình làm sứ điệp, làm tiếng hô sám hối.  Ki-tô hữu hôm nay cũng ý thức sứ mệnh làm sứ điệp sám hối.  Ta sống tinh thần sám hối, thay đổi và phá bỏ đi những trở ngại tâm hồn, để từ đó ta sẽ trở thành một tiếng hô cho gia đình, xã hội và thế giới.  Kinh nghiệm cho ta biết rất nhiều bậc cha mẹ không thể bảo ban dạy dỗ con cái được, là vì “tiếng hô” của họ rỗng tuyếch, không có cơ sở bởi đời sống gương mẫu.
          Trong viễn tượng truyền giáo, ta không thể mời gọi anh chị em chưa được biết Chúa đón nghe Tin Mừng nếu chính đời sống của ta không phản ảnh những giá trị Tin Mừng. Ta không thể nói với họ về bác ái, yêu thương, nếu chính ta thiếu lòng bác ái yêu thương.  Ta không thể loan báo cho người khác biết Chúa đến cứu độ ta, nếu ta chưa cho họ thấy con đường Chúa đến với ta đã được chuẩn bị sẵn sàng.

4)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Tất cả cuộc sống Ki-tô hữu là một hành trình sám hối không ngừng để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.  Vậy tôi đang trên hành trình ấy hay vẫn giậm chân tại chỗ? Tôi có ý thức sứ điệp Tin Mừng của Chúa Ki-tô cũng bắt đầu bằng việc kêu gọi sám hối không?  Tôi đọc Mác-cô 1:15 hoặc Mát-thêu 4:17 và trả lời Chúa.
          Những điểm xấu và tiêu cực nào trong tâm hồn tôi được ví như thung lũng, đồi núi, quanh co, lồi lõm?  Tôi có một vài phương thức cụ thể nào để thay đổi chúng, đặc biệt trong mùa Vọng này?

Cầu nguyện

          “Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đến.
          Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
          Chúa đã ở bên chúng con rồi.
          Có cả triệu người chưa biết Chúa.
          Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
          Chúa đến để làm gì
          nếu đời sống con cái của Chúa cứ tiếp tục y như cũ?
          Xin hoán cải chúng con.
          Xin lay chuyển chúng con.
          Ước gì sứ điệp của Chúa
          trở nên máu thịt của chúng con,
          trở nên lẽ sống của cuọâc đời chúng con.
          Ước gì sứ điệp đó
          lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
          và đòi buộc chúng con,
          làm chúng con không yên.
          Bởi lẽ chỉ như thế,
          sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
          bình an sâu xa,
          thứ bình an khác hẳn,
          đó là Bình An của Chúa.”
-          Helder Camara
(Trích RABBONI, lời nguyện 11)


Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Thứ Hai sau Chúa Nhật I Mùa Vọng – Năm C

 Lời Chúa: Mt 4, 18-22
“Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4, 19 -20).
Thánh Matthêu thuật lại việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Trình thuật này gợi lên hai yếu tố căn bản của tất cả các ơn gọi. Một đàng, việc Chúa cất tiếng gọi “Hãy theo Thầy” nói lên sự chủ động và ưu ái của Chúa đối với những người được gọi. Đàng khác, sự đáp trả lập tức của môn đệ Phê-rô, An-rê, Gia-cô-bê và Gioan nói lên thái độ quảng đại và sự từ bỏ cần có nơi môn đệ của Đức Giêsu. Họ cần từ bỏ tất cả để Chúa huấn luyện họ trở thành “kẻ chài lưới người” chuyên nghiệp cho Ngài. Khi nhận ra mình được Chúa Giêsu yêu thương và chọn gọi, các môn đệ đã đáp lại cách trọn vẹn, không phải một lần nhưng là trải dài suốt mọi biến cố trong cuộc đời. Đỉnh cao của lời đáp trả này là việc các ngài đã chọn cách chết như Thầy, chết cho người khác được sống đời đời.
Nếu xưa Chúa đã đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê để kêu gọi các môn đệ thì nay Chúa cũng đang đi dọc theo biển đời để mời gọi con người tiếp nối việc rao giảng Tin Mừng. Xưa Chúa đã hiện diện cách thể lý và gọi đích danh người được chọn thì nay Chúa vẫn đang hiện diện nơi Giáo Hội qua các vị đại diện của Ngài và cất tiếng gọi đối với những người Chúa muốn. Giữa một thế giới nhiều tiếng vẫy gọi như ngày hôm nay, tiếng Chúa gọi dường như xa lạ với nhiều người. Số bạn trẻ nghe và đáp lại tiếng Chúa đang ít dần. Chúa muốn mỗi người chúng ta đáp lại lời Ngài cách dứt khoát và trọn vẹn, không phải một ngày nhưng là mọi ngày trong đời ơn gọi của ta. Chúa muốn ta chu toàn ơn gọi của mình qua từng công việc và từng biến cố trong mỗi ngày sống. Nếu ta ví ơn gọi của ta như một đường thẳng thì những ngày sống vâng theo thánh ý Chúa nơi ta sẽ là những dấu chấm liên tục tạo nên đường thẳng đó. Dấu chấm đậm thì đường thẳng rõ, dấu chấm nhạt thì đường thẳng mờ. Khi có một đường thẳng rõ thì ta dễ dẫn mọi người đến với Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Giáo Hội của Chúa luôn cần những vị tông đồ thiện toàn để mở rộng Nước Chúa. Xin cho chúng con và nhiều bạn trẻ hôm nay biết noi gương các môn đệ của Chúa biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa gọi cách dứt khoát và trọn vẹn. Xin cho chúng con dám buông mình cho Chúa đào luyện để mai này trở thành những môn đệ như lòng Chúa ước mong.