Chủ Nhật, 8 tháng 11, 2015

Nghe Thánh lễ Chúa Nhật XXXII Thường Niên - tại Giáo xứ Vĩnh Hòa- Thánh lễ 19 g thứ bảy 07.11.2015

Thánh lễ Chúa Nhật XXXII Thường Niên - Lễ 5 giờ sáng CN 08.11.2015 - Giáo xứ Hà Đông, Xóm Mới

Thánh lễ Chúa Nhật XXXII Thường Niên ( 8.11.2015) tại Giáo xứ Hà Đông - lễ thiếu nhi

CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN - B

Lời Chúa: 1 V 17, 10-16; Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10; Dt 9, 24-28; Mc 12, 38-44.
Bài Đọc I - 1 V 17, 10-16
Trong những ngày ấy, tiên tri Êlia chỗi dậy lên đường đi Sarephta. Khi ông đến trước cửa thành, ông thấy một quả phụ đang lượm củi; ông gọi bà và nói với bà rằng: “Xin đem cho tôi một ít nước trong bình để tôi uống”. Ðương lúc bà đi lấy nước, ông gọi lại mà nói: “Xin cũng mang cho tôi một miếng bánh”. Bà thưa: “Có Chúa là Thiên Chúa hằng sống chứng giám: Tôi không có sẵn bánh, tôi chỉ còn một nắm bột trong hũ với một ít dầu trong bình. Này đây tôi lượm vài que củi về nấu cho tôi và con trai tôi ăn, rồi chết thôi”. Êlia trả lời bà rằng: “Bà đừng lo, cứ đi và làm như bà đã nói. Nhưng, với chút bột ấy trước hết hãy làm cho tôi một cái bánh nhỏ, đem ra đây cho tôi, sau đó hãy làm cho bà và con trai bà. Vì Chúa là Thiên Chúa Israel truyền rằng: ‘Hũ bột sẽ không cạn và bình dầu sẽ không vơi đi cho đến ngày Chúa cho mưa xuống trên mặt đất'”. Bà đi làm theo lời ông Êlia; chính ông và bà cùng cả nhà đều đủ ăn; từ ngày đó hũ bột không cạn và bình dầu không vơi như lời Chúa đã dùng Êlia mà phán.
Bài Đọc II - Dt 9, 24-28
Ðức Giêsu không tiến vào cung thánh do tay người phàm làm ra chỉ là hình bóng cung thánh thật, nhưng Người vào chính thiên đàng, để từ đây xuất hiện trước tôn nhan Thiên Chúa vì chúng ta. Người không còn hiến dâng chính mình nhiều lần, như vị thượng tế vào cung thánh mỗi năm một lần với máu không phải của mình. Chẳng vậy, từ tạo thiên lập địa, Người đã phải chết nhiều lần; nhưng từ nay cho đến tận thế, Người chỉ xuất hiện một lần tế lễ chính mình để huỷ diệt tội lỗi. Như đã quy định, người ta chỉ chết một lần thế nào, sau đó là phán xét, thì Ðức Kitô cũng hiến tế một lần như vậy, để xoá tội lỗi của nhiều người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để chuộc tội, nhưng để cứu độ những ai trông đợi Người.
Tin Mừng - Mc 12, 38-44
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: “Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn”. Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: “Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình”.
Suy niệm
Người nghèo thường quảng đại và sẵn sàng quên mình để giúp đỡ người khác. Họ tự do với bạc tiền danh lợi, nên có thể tin vào con người và sẵn sàng yêu thương phục vụ hơn.
Chúa Giêsu nói với mọi người: “hãy coi chừng” những ông kinh sư, họ thích mặc áo thụng xúng xính khác người, thích được chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất, nhưng lại “nuốt” hết tài sản của các bà góa, lại còn giả bộ đọc kinh lâu giờ.
Không phải chỉ những ông kinh sư thời Đức Yêsu thích rồi làm như vậy, mà con người ngày nay cũng vậy nữa: cũng tham của người, ham danh hám lợi, và hay giả bộ “đạo đức”. Nếu đạo đức thật, mà người ta thấy thì cũng tốt vì làm gương sáng; còn nếu không đạo đức mà lại làm như thể đạo đức, là giả hình. Hãy coi chừng.
Nếu ai thích khen, người đó có thể bị điều khiển bằng lời khen; nếu ai tham của, người đó có thể bị mua chuộc bằng tiền của. Người đó đang bị nô lệ, bị sai khiến bởi tiền bạc danh vọng chức quyền. Người đó tưởng họ đang tự do, nhưng thực sự họ đang nô lệ và bị điều khiển mà họ không biết. Hãy coi chừng.
Nếu bạn không nô lệ những điều đó, thì hạnh phúc biết bao!
Tiên tri Elia trên đường lánh nạn đã được Chúa truyền đến sống nhờ một bà goá nghèo. Cũng có thể nói bà goá nghèo và con bà sống nhờ tiên tri, vì chính nhờ tiên tri mà hũ bột không cạn và hũ dầu không vơi. Đúng hơn Thiên Chúa thương cả tiên tri lẫn bà goá nghèo nên đã nuôi sống tất cả.
Bà goá chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu, lượm củi làm cái bánh cuối cùng để “ăn rồi chết”, thế mà bà vẫn tin lời tiên tri, làm cho ông một cái bánh trước khi làm cho con bà và chính bà. Cách hành xử của bà goá này rất đẹp. Tôi có đơn sơ tin người và sẵn sàng giúp người như bà goá nghèo này không? Thiên Chúa quá tuyệt.
Bà goá trong Tin Mừng được Đức Giêsu khen là quảng đại, dám dâng cúng tất cả những gì mình có. Có người nói rằng: “vì bà goá chỉ có mấy xu nên dễ dàng để dâng cúng tất cả, còn nếu bà goá này thật giầu thì chắc bà chẳng dám bỏ tất cả đâu”! Cũng có thể như vậy, nhưng “những người quảng đại” thường nghèo; có lẽ họ “hay cho” nên mới không giầu. Bà goá đó không giầu được vì bà luôn cho tất cả, dù khi bà có hai xu hay có nhiều hơn hai xu, có lẽ chưa khi nào bà giữ cho mình được mười đồng vì bà vẫn cho những gì bà có. Thiên Chúa cũng cho con người tất cả, ngay cả điều qúy nhất là Chúa Con và Thánh Thần.
Những người “ham tiền” thường ky cóp và không bỏ ra ngay cả một xu!
Có mấy người hiểu được hạnh phúc của người nghèo? Có mấy người hiểu được người nghèo tự do đến mức nào? Trong cuộc sống, bao nhiêu quyết định bị chi phối bởi sợ người này hay không dám làm mất lòng người kia, sợ người khác hiểu lầm mình, sợ người khác không còn đánh giá mình cao nữa, sợ người khác biết sự thật về mình. Vì sợ nên không được tự do.
Xin Chúa cho con nghèo, để con không còn gì để phải sợ, để con chỉ còn biết sống theo Chúa theo sự thật, để chỉ bị tình yêu thương chi phối mà thôi.

CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN

(1 V 17,10-16; Hr 9,24-28; Mc 12,38-44)
THIÊN CHÚA THẤU TỎ MỌI SỰ
“Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: ‘Thầy bảo thật anh em: 
bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết’” (Mc 12,43)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1:
    Bối cảnh đoạn sách Các Vua là lời loan báo của ngôn sứ Êlia về án phạt của Thiên Chúa đối với vua Akháp vì vua đã tôn thờ thần Baan (1 V 16,29-33). Theo đó, trong đất nước của vua sẽ chẳng có mưa trong một thời gian dài. Trong hoàn cảnh hạn hán và đói kém, Thiên Chúa có cách để lo liệu cho vị ngôn sứ của Ngài (x. 1 V 17,1-9). Nhưng điều gây ngạc nhiên hơn cả là việc Thiên Chúa biểu lộ sự quan phòng của Ngài qua hình ảnh tín thác của một bà góa nghèo (1 V 17,10-16).
    Các bà góa trong Kinh Thánh luôn là những người chịu nhiều thiệt thòi. Họ đa phần là những người nghèo, bị xã hội coi thường và lãng quên. Bà góa trong đoạn sách Các Vua cũng không phải là ngoại lệ. Ngôn sứ Êlia gặp bà lúc bà đang đi lượm củi để lo cho bữa ăn cuối cùng, một hình ảnh cho thấy cái nghèo đến cùng cực của bà trong hoàn cảnh hạn hán và đói kém, đến nỗi bà có thể thấy trước cái chết của mình và con trai. 
Bà góa này không những nhận ra Thiên Chúa là Chúa của vị ngôn sứ, mà bà con thề trước Ngài (1 V 17,12), nghĩa là, cách nào đó, bà cũng thừa nhận Ngài là Chúa của bà. Không loại trừ khả năng bà là người gốc Israel, nhưng được gả chồng ở Xarépta, thuộc Xiđôn, vùng đất thuộc dân ngoại. Dù thế nào, bà góa này xác tín rằng Thiên Chúa là Đấng vượt lên trên và hiểu biết tất cả; bà ý thức rằng Thiên Chúa thấu suốt hoàn cảnh nghèo đói của bà. 
    Do vậy, trong hoàn cảnh bi đát của nạn hạn hán, bà vẫn sẵn sàng cho nước theo lời yêu cầu của vị ngôn sứ; đồng thời trong lúc nạn đói đang hoành hành dữ dội, lúc thức ăn đã cạn kiệt, lúc bà và con trai đang đối diện với cái chết cận kề, bà vẫn sẵn sàng chia sẻ phần ăn với vị ngôn sứ. Sự sẵn sàng trao ban của bà theo yêu cầu của vị ngôn sứ thể hiện một lòng tin mạnh mẽ vào lời hứa của Êlia, và trên hết là niềm tin vào Thiên Chúa của vị ngôn sứ. 
    Phép lạ về bình dầu không cạn và hũ bột không vơi là một minh chứng cho sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, Đấng lo liệu khéo léo cho vị ngôn sứ của Ngài. Đồng thời, phép lạ còn là lời xác tín vững chắc rằng Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi những con người, dù nghèo khó, hèn kém và bị bỏ quên trong xã hội, nhưng vẫn một lòng tin tưởng và phó thác vào Ngài.
2. Bài đọc 2:
    Thư Hípri phác họa hình ảnh Đức Kitô Thượng Tế như là vị trung gian hoàn hảo, là cầu nối hữu hiệu giữa con người với Thiên Chúa. Những lý do sau đây chứng minh cho điều đó.
    Một là, trong khi các thượng tế Do Thái chỉ có thể vào trong nơi cực thánh một năm một lần, nơi mà họ tin rằng có sự hiện diện thật sự của Thiên Chúa, để dâng lễ đền tội cho mình và cho dân, thì Đức Kitô Thượng Tế lại vào chính cõi trời, diện đối diện với chính Thiên Chúa mà chuyển cầu cho dân (Hr 9,24). Đức Kitô phục sinh là vị Thượng Tế được siêu thăng cõi trời, hằng ngự bên hữu Thiên Chúa để chuyển cầu hiệu quả cho dân mỗi khi cần chứ không phải chờ đợi mỗi năm một lần như trong định chế tư tế Lêvi.
    Hai là, các thượng tế Do Thái mỗi năm đều phải mang máu con vật vào nơi cực thánh để xin Thiên Chúa tha tội cho mình và cho dân là vì máu đó không hoàn toàn xóa bỏ được tội lỗi. Đức Kitô Thượng Tế chỉ dâng hiến tế là chính máu của mình một lần, nhưng hoàn toàn tiêu diệt mầm mống tội lỗi và xóa bỏ tội muôn người (Hr 9,26.28). Theo quan niệm Do Thái, không có máu đổ ra thì không có ơn tha thứ (x. Hr 9,22), nhưng chỉ có máu của Đức Kitô Thượng Tế, Đấng “thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Hr 7,26) mới đem lại ơn tha thứ một lần cho tất cả. 
Ba là, Đức Kitô Thượng Tế sẽ trở lại lần thứ hai, nhưng không phải để tiếp tục dâng lễ đền tội, nhưng là để đem lại ơn cứu độ cho những ai trông đợi Người (Hr 9,28). Giá trị cứu độ của hy tế Đức Kitô mang tính trường tồn. Ơn cứu độ này chỉ dành cho những ai biết “trông đợi Người”, trông đợi bằng thái độ sống “tùng phục Người” (Hr 5,9). Như Đức Kitô đã “học vâng phục” qua đau khổ để trở nên nguồn ơn cứu độ thế nào, thì những ai chờ đợi Đức Kitô bằng thái độ vâng phục thánh ý Thiên Chúa đều xứng đáng đón nhận nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu do hiến tế cứu độ của Người mang lại (x. Hr 5,8-9).
    Đức Kitô Thượng Tế vào chính cõi trời, trước nhan Thiên Chúa, để dâng chính máu của mình, tiêu diệt hoàn toàn tội lỗi, hầu mang lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai đợi trông Người. Người thật là vị Thượng Tế hoàn hảo, là trung gian hữu hiệu giữa Thiên Chúa và con người. 
3. Bài Tin Mừng
    Bài Tin Mừng mô tả hai hoàn cảnh không những khác nhau mà còn trái ngược nhau. Một bên là hình ảnh của các ông kinh sư bị Chúa Giêsu phê phán vì cách sống nặng tính phô trương vẻ bề ngoài. Bên kia là hình ảnh của bà góa nghèo được Chúa Giêsu khen ngợi vì đã âm thầm, kín đáo cho đi những gì quý giá nhất với cả tấm lòng. 
Các kinh sư là những người có vai trò quan trọng trong việc giúp dân hiểu và giữ Lề Luật. Với vị thế, vai trò và lối sống đạo hạnh của mình, họ thường nhận được sự kính trọng của dân. Tuy nhiên, có lẽ thời Chúa Giêsu vẫn có những vị kinh sư chỉ chăm chú đến lối sống nặng tính hình thức bên ngoài như: khoe khoang mũ áo, thích được chào hỏi, ưa chuộng lời khen và ghế danh dự nơi công cộng, cầu nguyện hình thức… nhưng bên trong che đậy sự gian trá và lọc lừa ngay cả tiền bạc của các bà góa là đối tượng thường chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Chúa Giêsu mạnh mẽ lên án lối sống giả tạo, vụ hình thức của họ, rằng họ sẽ bị Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can con người, kết án nghiêm khắc.
    Trái lại, hình ảnh bà góa nghèo dâng cúng một số tiền rất nhỏ lại được Chúa Giêsu khen ngợi. So với những người giàu bỏ thật nhiều tiền, thì hai đồng tiền kẽm của bà góa chẳng đáng là gì. Chúa Giêsu khen bà góa đã dâng cúng số tiền nhiều hơn ai hết chắc chắn không phải dựa trên giá trị số tiền bà dâng mà dựa trên tấm lòng sẵn sàng cho đi “tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Lc 12,44). Lòng quảng đại của bà góa khi dám cho đi tất cả thì đáng quý hơn rất nhiều so với những người giàu chỉ cho đi những gì là dư thừa.
Hai hình ảnh trái ngược trong bài Tin Mừng gợi lên nhiều điều đáng để suy gẫm:
Một là, Thiên Chúa không nhìn vào dáng vẻ bên ngoài để đánh giá. Ngài là Đấng thấu suốt lòng dạ con người từ bên trong. Những gì thể hiện ra bên ngoài chỉ có giá trị thực sự khi phát xuất từ tấm lòng bên trong. Người ta có thể đánh lừa nhau vì cái mã bên ngoài, nhưng những gì phát xuất từ tấm lòng mới là điều Thiên Chúa trông đợi nơi con người. 
    Hai là, tất cả mọi hành động và của cải trao ban, dù nhỏ mọn, tầm thường, nhưng nếu xuất phát tự tâm hồn tốt lành, trung thực và quảng đại đều có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Của cho, dù ít hay nhiều, chắc chắc đều đáng quý, nhưng cách cho còn đáng quý hơn gấp bội.
Ba là, mọi người đều có giá trị như nhau trước mặt Thiên Chúa, dù họ là ai, ở địa vị nào. Ngài không bỏ qua hành động sai trái của kẻ mạnh, cũng không bỏ quên nghĩa cử cao đẹp của người thấp bé. Ngài đặc biệt quan tâm và dành tình thương cách đặc biệt cho những người nghèo, những người đang sống trong cô đơn, bị quên lãng hay bỏ rơi. 
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Phép lạ về bình dầu không cạn và hũ bột không vơi là một minh chứng sống động cho sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, Đấng khéo léo lo liệu cho vị ngôn sứ của Ngài, và là Đấng không bỏ rơi những con người nghèo hèn, bé nhỏ nhưng một lòng tin tưởng và phó thác vào Ngài. Tôi có tin rằng Thiên Chúa vẫn hằng yêu thương, quan phòng, ngay cả khi tôi gặp những hoàn cảnh cô đơn, nghèo hèn, khốn khổ, bi đát?
2/ Đức Kitô thật là vị Thượng Tế hoàn hảo, là trung gian hữu hiệu giữa Thiên Chúa và con người, Đấng vào chính cõi trời để dâng máu mình làm của lễ đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho con người. Người đã học vâng phục thánh ý Thiên Chúa ngay cả trong những lúc đau khổ nhất nên không có nỗi khổ đau nhân loại nào mà Người không thể cảm thấu. Tôi có xác tín mạnh mẽ rằng Đức Giêsu là trung gian hữu hiệu nhất dẫn tôi đến với Thiên Chúa, và là nguồn ơn cứu độ duy nhất của đời tôi?
3/ Chúa Giêsu nhìn thấu và lên án lòng dạ xấu xa bên trong của các ông kinh sư dù bên ngoài họ tỏ ra đạo đức, nhưng Người lại khen ngợi lòng quảng đại của bà góa nghèo, dù nhìn bên ngoài số tiền dâng cúng của bà chẳng là gì so với những người giàu dâng nhiều tiền. Tôi có thường sống với chiếc mặt nạ? Cách tôi sống, những việc tôi làm có xuất phát từ tầm lòng chân thành và trung thực?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng của con người, Người luôn quan tâm chăm sóc những ai có tâm hồn nghèo hèn bé mọn và ưu ái chúc phúc cho họ. Với lòng tin tưởng phó thác mọi sự trong tay Chúa, chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:
1. Chúa Giêsu đã phê phán thái độ giả hình của các kinh sư, biệt phái. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh biết tránh xa thói giả hình, luôn trung thành với tinh thần nghèo khó Phúc Âm, và tận tâm phục vụ vì phần rỗi của mọi người.
2. Lối sống ích kỷ vô cảm là điều đáng cảnh báo trong cuộc sống hôm nay. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo xã hội biết đề cao và khuyến khích mọi người sống tinh thần quảng đại hy sinh, nâng đỡ chia sẻ, nhằm xây dựng một xã hội văn minh liên đới.
3. Đức Kitô chỉ hiến tế một lần là đủ đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi kitô hữu luôn xác tín vai trò trung gian duy nhất của Đức Kitô và biết tích cực tham dự vào hy lễ cứu độ của Ngài bằng một đời sống quên mình phục vụ.
4. Chúa Giêsu đánh giá bà góa nghèo đã bỏ nhiều hơn hết. Xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết theo gương bà góa trong Tin Mừng, luôn sống tín thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, sẵn lòng chia sẻ với mọi người và đóng góp cho việc chung.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con ca ngợi và tôn vinh lòng thương xót hải hà của Chúa, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và rộng ban muôn ơn lành giúp chúng con luôn sống đẹp lòng Chúa theo gương Đức Giêsu Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

08/11/2015 Chúa Nhật Tuần XXXII Mùa Thường Niên Năm B


PHÚC ÂM: Mc 12, 41-44 {hoặc 38-44}
"Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, {Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn".}
Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình". Đó là lời Chúa.
CHIA SẺ PHÚC ÂM:
Bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng đưa ra hai nhận định khác nhau về hai loại người. Nhận định thứ nhất về nhóm biệt phái, đại diện cho thành phần có chức có quyền. Nhận định thứ hai về bà goá nghèo, đại diện cho những con người thấp hèn, nghèo đói. Cả hai đều lên đền thờ với hai thái độ khác nhau. Bà goá nghèo khiêm tốn. Nhóm biệt phái giầu có lại kiêu căng. Bà goá nghèo dâng tất cả những gì mình có cho Chúa. Người biệt phái chỉ có lòng tự cao tự đại.
Nhóm biệt phái là những công chức đền thờ nhưng không đóng góp của chung mà chỉ lợi dụng để lấy của chung thành của riêng. Họ là những người giầu có nhưng lòng họ chất chứa đầy sự kiêu căng, vụ lợi đến nỗi không còn lòng quảng đại để cho đi.
Bà goá nghèo tiền, nghèo của nhưng lại giầu tấm lòng. Bà thành kính lên đền thờ với thái độ khiêm tốn thẳm sâu trước nơi cực thánh của Chúa. Bà đã dâng tất cả những gì mình có cho Chúa, dù chỉ là một đồng xu nhỏ bé.
Chúa đã khen ngợi tấm lòng bà goá. Một tấm lòng chân thành và quảng đại. Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Kẻ không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng.
Thực vậy, sự giàu có về vật chất đôi khi làm con người nghèo khó về tinh thần. Sự nghèo khó vật chất đôi khi lại thảnh thơi tâm hồn. Kẻ tham lam thường nghèo đói về lòng nhân ái. Kẻ biết sống khó nghèo thường chứa chan tình yêu. Kẻ có chức có quyền dễ mất tính bao dung và thương xót. Kẻ khốn cùng dễ cảm thông với bất hạnh bần cùng của tha nhân.
Xét cho cùng, sự giàu có không hệ tại ở đồng tiền hay chức vị. Sự giàu có hệ tại ở những tương quan với đồng loại. Do vậy, điều mà con người cần tích lũy không phải là của cải trần gian mà là tình yêu đối với tha nhân. Điều mà con người thu gom không phải là hàng hoá xa sỉ phẩm mà là từng nghĩa cử cao đẹp chúng ta dành cho đồng loại.
Kẻ có chức có quyền càng bị kết án nặng hơn nếu họ không biết dùng địa vị của mình để phục vụ một cách vô vị lợi. Chính họ không những phải trả lẽ trước mặt Chúa về sự ích kỷ của mình, mà còn mất đi cơ hội mua lấy bạn hữu Nước Trời bằng tấm lòng rộng lượng của mình.
Mỗi người chúng ta chỉ là những quản lý của Chúa, hãy biết đón nhận trong sự khiêm tốn và biết trao ban cho anh em theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Xét cho cùng, tất cả những gì chúng ta có, đều nhận lãnh do lòng quảng đại của Chúa. Do đó, những gì chúng ta cho, không phải chúng ta cho của riêng mình, nhưng là giao lại cho người khác những gì thuộc về Chúa. Dù vậy Chúa vẫn thưởng công cho chúng ta. Vì Chúa đã từng nói: "Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu." Amen.

Nghe Thánh lễ Chúa Nhật XXXII Thường Niên B

tại Giáo xứ Hà đông, hạt Xóm Mới, Sài Gòn